Pages

Subscribe:

Ads 468x60px

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012

Bình an trong khủng hoảng ở Ga 14,1-31


Ở chương 13 cho thấy một bầu không khí rất ảm đạm, tưởng chừng như mây đen đang vây quanh tứ phía các môn đệ. Các ông đang gặp khủng hoảng lớn từ chính bên trong nội bộ cộng đoàn các môn đệ và nhất là những lời nói của Thầy mình như là sự trối lại của một người sắp ra đi. Chính vì cảnh bi thảm đó mà ta thấy được bữa tiệc này kéo dài tưởng chừng như không có hồi kết. Các môn đệ đang hoang mang vì không còn biết phải làm gì lúc này thì Đức Giê-su lại khích lệ các ông “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (câu 1). Nếu anh em tin thì anh em sẽ không phải lo lắng gì vì “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, Thầy lại đến và đem anh em theo với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (câu 3). Hơn nữa Đức Giê-su cũng mạc khải cho các môn đệ biết là Người chính là đường, là sự thật và là sự sống và nhất là tất cả nếu muốn đến được với Chúa Cha thì Người chính là con đường dẫn mọi người đến với Chúa Cha (câu 6). Chính cái chết của Người là con đường và vì vậy mà Phê-rô không thể đi theo Thầy  và Tô-ma không biết đường vì chưa có đường, vì Đức Giê-su đang còn đó nói với các ông. Đức Giê-su chính là con đường và đồng thời Người cũng là đích đến. Khi đến được với Người, khi đi trên con đường đó thì cũng là lúc ta đi đến đích, đến được với Chúa Cha vì “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (câu 9).
Nội dung của niềm tin chính là “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”. Đây lại là một mạc khải nữa cho các môn đệ cũng như cho người đọc qua mọi thời đại về sự tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giê-su. Một sự tương quan mật thiết đến độ ở lại trong nhau. Nếu không tin như vậy thì ít ra là các môn đệ hãy tin vào những việc mà Đức Giê-su đã làm. Những việc Người đã làm là những việc gì? Đó là những việc mà khi các môn đệ theo Người đã chứng kiến.
Người khích lệ các ông là nếu “Ai tin vào Thầy, thì những việc Thầy làm người ấy cũng sẽ làm và sẽ làm những điều lớn hơn” (câu 12). Và cũng trong niềm tin đó thì “nếu anh em xin điều gì nhân danh Thầy, chính Thầy sẽ làm” (câu 14). Niềm tin chính là cốt lõi của mọi việc vì khi tin thì chúng ta mới yêu mến. Một đề tài lớn đó là “yêu mến”. Ở đây có sự nối kết giữa các tiểu đoạn với nhau vì khi “biết – tin – làm – xin” thì sẽ dẫn đến yêu mến. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15) và ta cũng có thể nói ngược lại là khi giữ các điều răn của Đức Giê-su thì khi đó ta thể hiện lòng yêu mến Người. Từ “và” ở c.16 đó là sự kết nối với Chúa Cha. Từ yêu mến Đức Giê-su dẫn đến Đức Giê-su can thiệp với Cha để Người ban cho anh em một Đấng Pa-rác-lê, để Người ở với anh em luôn mãi. Đấng Pa-rác-lê “sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả” (câu 26). Đây chính là ân huệ, cũng có thể hiểu đây là sự khích lệ để các ông khỏi xao xuyến và sợ hãi. Khi đó các môn đệ sẽ hiểu tất cả vì hiện tại bây giờ các ông chưa hiểu. Chính Đấng Pa-rác-lê sẽ tiếp tục công việc của Đức Giê-su. Ở đây không phải là Đấng Pa-rác-lê đến thay thế Đức Giê-su. Đức Giê-su dạy thì nay Đấng Pa-rác-lê cũng dạy và làm cho các ông hiểu được những gì Đức Giê-su đã dạy (câu 26).
Chính Đức Giê-su cũng sẽ lại đến với các ông (câu 18). Đây chính là sự hiện diện mới – một sự hiện diện mà chỉ những ai đã từng sống và có kinh nghiệm về Người thì mới thấy Người. “Thế gian không còn thấy Thầy, nhưng anh em, anh em thấy Thầy” (câu 19). Thế gian không thấy là vì thế gian không tin, không đón nhận mạc khải. Nhưng các môn đệ thì thấy vì các ông tin. Sự ra đi này của Đức Giê-su là về sống với Chúa Cha và Đức Giê-su sẽ làm cho họ được sống và họ sẽ không phải mồ côi. Nhưng hơn thế họ được hiệp nhất với Chúa Cha (câu 20).
Đang khi tâm sự với các môn đệ thì ở đây (câu 21) có sự thay đổi đối tượng nghe. Không phải chỉ các môn đệ, không phải là “anh em” nhưng ở đây là “ai” có nghĩa là đối tượng được nhắm đến giờ đây là tất cả mọi người. Bất kỳ ai, qua tình yêu mà có và giữ các điều răn của Đức Giê-su thì sẽ được Chúa Cha và Đức Giê-su đến với người ấy. Tuy nhiên, ta thấy ở câu 23 chỉ toàn là thì tương lai còn câu 24 toàn là thì hiện tại, đây là điều rất hay cho ta thấy được mạc khải thì đã có rồi nhưng họ đã kết án, họ đã không tin Đức Giê-su ngay khi Người còn rao giảng tại thế, thì giờ đây cộng đoàn các môn đệ cũng sẽ bị họ bách hại và tìm cách tiêu diệt, loại trừ. Nhưng điều khích lệ các ông ở đây đó là sự hiện diện của “Chúa Cha, Đức Giê-su và Đấng Pa-rác-lê” ở trong họ với điều kiện là các ông hãy vững tin và điều này được thể hiện qua việc các ông phải “yêu mến” và “giữ các điều răn” của Đức Giê-su. Sau biến cố Thương Khó và Phục Sinh thì đây là sự hiện diện mãi mãi của cả ba Đấng.
Tiểu đoạn ba (Ga 14,27-31) trở lại với đề tài khích lệ các môn đệ, mà trước tiên đó là sự bình an của Đức Giê-su ban cho các môn đệ. Chỉ trong câu 27 từ “bình an” đã xuất hiện tới 2 lần. Đức Giê-su để lại “bình an” và sự sự bình an này chính là “bình an của Thầy”, là bình an của chính Đức Giê-su nên nó không như sự bình an của thế gian ban tặng. Như vậy ta thấy thế gian nó cũng có sự bình an và nó cũng có thể ban sự bình an cho những ai thuộc về nó. Nhưng sự bình an của Đức Giê-su thì khác, sự bình an này sẽ giúp cho các môn đệ vượt qua được những khủng hoảng mà các ông đang gặp phải, giúp cho các ông giữ vững được niềm tin trong mọi hoàn cảnh. Để đón nhận được sự bình an của Đức Giê-su thì các ông “hãy vững tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, “hãy yêu mến bằng cách tuân giữ các điều răn của Thầy”, nói cách khác là hãy đón nhận mạc khải. Và ở 16, 33a thì các môn để phải không ngừng hiệp thông với Đức Giê-su và “ở lại” trong Người. Nối tiếp với bình an là “niềm vui”. Nguyên do của niềm vui là “Thầy đi về với Cha, bởi vì Cha lớn hơn Thầy” (câu 28). Tại sao các môn đệ có được niềm vui khi mà Thầy mình sắp đi vào cuộc Thương khó? Niềm vui mà Đức Giê-su nói đến ở đây đó là một niềm vui trọn vẹn, một niềm vui không ai cướp mất được nhờ đọc ra được ý nghĩa đích thực của biến cố Thương Khó là “Giờ tôn vinh”.
Ta thấy ở đây có sự tương phản giữa “sống” và “chết”, giữa “các môn đê” và “thế gian”, giữa “Đức Giê-su” và “Thủ lãnh thế gian”. “Thủ lãnh thế gian” và “thế gian” tìm cách giết “chết” Đức Giê-su thì Đức Giê-su lại dùng chính cái “chết” trên thập giá của mình để đi vào cõi “sống”, để về với Cha, và để chiến thắng thế gian. Bởi thế, các môn đệ cũng không gì phải sợ vì chính Đức Giê-su đã thắng và các ông cũng sẽ thắng. Đây là sự khích lệ lớn cho các môn đệ cũng như cộng đoàn người tin đang bị thế gian bách hại.
Tiểu đoạn ba như là sự tóm kết tất cả vì giờ của Người đã rất gần “Thầy không còn nói nhiều với anh em nữa” (câu 30a), “Thủ lãnh của thế gian đang đến” (câu 30b). Tuy nhiên, người thuật chuyện cho ta thấy được như là chuẩn bị có cuộc chiến giữa Đức Giê-su và Thủ lãnh thế gian nhưng không phải vậy. Vì “nó không có quyền gì trên Thầy” (câu 30c). Đức Giê-su đi chịu chết là để thế gian biết rằng “Thầy yêu mến Cha” (câu 31a). Đây như là sự ra đi của tình yêu. Nói cách khác đây chính là sự vâng phục vì “Cha đã truyền cho Thầy thế nào thì Thầy làm như vậy” (câu 31b). Đức Giê-su đến thế gian là để thực thi Thánh Ý Chúa Cha và đây là thời điểm gay cấn nhất, có thể nói đây chính là đỉnh điểm của sự vâng phục, là đỉnh điểm của tình yêu.
Qua chương 14 ta thấy được chủ đề kết nối các chủ đề còn lại đó chính là “tin”. Các môn đệ và mọi người tin qua mọi thời luôn được mời gọi tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giê-su để biết được Đức Giê-su chính là đường, là sự thật và là sự sống. Đồng thời biết được Đức Giê-su là trung gian duy nhất để con người đến với Chúa Cha. Nhờ biết được như vậy mà các môn đệ và người tin có thể vượt qua được những hoang mang và khủng hoảng đến từ bến ngoài lẫn bên trong cộng đoàn. “Yêu mến” và “tuân giữ các điều răn” của Đức Giê-su chính là điều kiện để những người tin có được sự ‘ở lại” của ba Đấng. Khi có được sự ở lại đó thì họ sẽ có được sự “bình an” và “vui mừng” trong cuộc sống đức tin của mình. Cũng có thể nói rằng sự “ở lại” của ba Đấng giúp cho người tin vững tin hơn trong những lúc mình gặp khủng hoảng.

Bruno Nguyễn Hữu Vinh

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
BACK TO TOP