Pages

Subscribe:

Ads 468x60px

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Khảo Sát Thông Điệp Dominum Et Vivificantem Dưới Khía Cạnh Ân Sủng



Phạm Minh Tâm

DÀN BÀI TỔNG QUÁT
Dẫn Nhập
I. Thiên Chúa Ban Ân Sủng Thánh Thần Cho Nhân Loại
1. Ân Sủng Thánh Thần Trong Khởi Nguyên
2. Ân Sủng Thánh Thần Trong Khởi Nguyên Mới
II. Ân Sủng Thánh Thần Tương Quan Với Mầu Nhiệm Đức Kitô
1. Ân Sủng Thánh Thần Với Mầu Nhiệm Nhập Thể
2. Ân Sủng Thánh Thần Với Cuộc Khổ Nạn Của Đức Kitô
3. Ân Sủng Thánh Thần Với Sự Phục Sinh Của Đức Kitô
III. Ân Sủng Thánh Thần Nơi Giáo Hội
1. Ân Sủng Thánh Thần Cứu  Chuộc Con Người
2. Ân Sủng Thánh Thần Công Chính Hóa Con Người
Kết Luận
****
Dẫn Nhập
Trải qua lịch cứu độ của Israel, lịch sử của Giáo hội và ngay cả lịch sử của loài người; chúng ta đều thấy sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự hiện diện này không phải là một sự hiện diện đơn thuần có mặt nhưng là một sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng. Sự hiện diện này là sự hiện diện của một Thiên Chúa đầy lòng thương xót, luôn quan phòng đến công trình tạo dựng của Ngài; đặc biệt là quan phòng đến con người vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Chính sự hiện diện này lại cho chúng ta thấy ân sủng của Thiên Chúa được ban cho con người một cách dồi dào và phong phú để trong mọi lúc, mọi nơi con người luôn có thể sống theo Thánh ý Thiên Chúa.

Đặc biệt, ngay từ khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã ban ân sủng Thánh Thần để công trình của Người hiện hữu và sống động. Và có thể nói ân sủng Thánh Thần luôn hiện diện trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Hay nói một cách khác là Thiên Chúa luôn ban ân sủng Thánh Thần cho con người để nhờ đó con người có được sự sống đời đời[1]. Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước và cả nơi đức tin của Giáo hội cũng đều cho chúng ta biết rằng ân sủng Thánh Thần luôn hiện diện nơi nhân loại.
Ân sủng Thánh Thần cũng luôn hiện diện trong công trình cứu độ của Thiên Chúa. Nếu chỉ xét giai đoạn Nhập thể, Khổ nạn và Phục sinh của Đức Kitô là giai đoạn tột đỉnh và dứt khoát của công trình cứu độ thì cũng cho thấy sự hiện diện của ân sủng Thánh Thần. Sự hiện diện của ân sủng Thánh Thần này không những thúc đẩy mà còn là tác nhân chính yếu để Đức Giêsu Kitô chu toàn thánh ý Thiên Chúa là cứu độ nhân loại. Chính Đức Giêsu Kitô đã lãnh nhận ân sủng Thánh Thần để Người thông hiểu và vâng phục Thiên Chúa.
Giáo hội cũng đã lãnh nhận ân sủng Thánh Thần một cách đặc biệt trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Chính ân sủng Thánh Thần làm cho Giáo hội tồn tại, sinh động và mọi thành phần của Giáo hội có được sự sống đời đời. Ân sủng Thánh Thần còn làm cho Giáo hội hiểu được tất cả những lời Đức Giêsu dạy dỗ và thi hành nhiệm vụ Đức Giêsu trao phó. Ân sủng Thánh Thần còn làm cho công trình của Đức Giêsu được tiếp tục trong Giáo hội[2].
Như thế, và trong chiều hướng trên, tôi xin được trình bày việc khảo sát thông điệp Dominum et Vivificantem dưới khía cạnh ân sủng như sau: thứ nhất là Thiên Chúa ban ân sủng Thánh Thần cho nhân loại, thứ hai là ân sủng Thánh Thần tương quan với mầu nhiệm Đức Kitô, thứ ba là ân sủng Thánh Thần nơi Giáo hội.
I. Thiên Chúa Ban Ân Sủng Thánh Thần Cho Nhân Loại
1.      Ân Sủng Thánh Thần Trong Khởi Nguyên
Vì tình yêu, Thiên Chúa đã sáng tạo nên mọi sự. Trong đó, con người là tột đỉnh của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Có thể nói vì con người và vì yêu thương con người một cách đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban ân sủng Thánh Thần cho con người. Ân sủng Thánh Thần chính là Tình yêu của Thiên Chúa, làm cho các loài thụ tạo được hiện hữu khi sáng tạo. Ân sủng Thánh Thần là nguồn ơn, được đổ đầy tràn trên công trình sáng tạo, đặc biệt là trên con người để con người được cứu độ.
Với tư cách một Đấng đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con về thiên tính, Chúa Thánh Thần là Tình Yêu và là Ân Huệ bất thụ tạo, từ nơi Ngài, như là một nguồn mạch, xuất phát mọi ân ban cho các thụ tạo: ơn hiện hữu cho mọi vật qua sáng tạo, ân sủng cho loài người qua toàn bộ kế hoạch cứu độ. Như thánh Phaolô viết: Tình yêu Thiên Chúa được đổ tràn vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta (Rm 5,5)[3].
Trong chương đầu của sách Sáng Thế đã cho chúng ta thấy ân sủng Thánh Thần hiện diện trong tạo thành. “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,1-2). Với tư cách là Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Con nên Ngài thấu suốt mọi sự và trở thành ân huệ hiện hữu trong tạo thành[4]. Và chính nhờ Ngài mà Thiên Chúa bắt đầu ban chính mình cho công trình sáng tạo; đặc biệt và trước hết, Thiên Chúa ban chính mình cho con người là loài thụ tạo được dựng nên theo hình ảnh và giống Thiên Chúa[5].
Trong việc tạo dựng con người, khởi nguyên thứ nhất của ân huệ, Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo một phong cách đặc biệt không như những loài thụ tạo khác và cũng ban ân sủng Thánh Thần cho con người một cách đặc biệt. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7). “Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Đức Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn tới con người” (St 2,21-22).
Như thế, ngay từ khởi nguyên, Thiên Chúa đã ban ân sủng Thánh Thần cho công trình tạo thành của Ngài, đặc biệt là cho con người. Ân sủng Thánh Thần này mà Thiên Chúa ban cho con người còn được nhắc tới nhiều lần một cách đặc biệt trong Kinh Thánh Cựu ước.
Các ngôn sứ luôn nhận được ân sủng Thánh Thần một cách đặc biệt để thi hành nhiệm vụ được Thiên Chúa ký thác. Trước khi đi thi hành sứ vụ, các ngôn được xức dầu Thánh Thần, nghĩa là lãnh nhận ân sủng Thánh Thần. Trong Cựu ước, việc xức dầu đã trở thành biểu tượng bên ngoài của ân huệ Thần Khí. Ngôn sứ Isaia đã nói: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo tin mừng…” (Is 61,1-2) . Ông Simêon cũng là người được đầy ân sủng Thánh Thần. Ông đã nhận ra chính Đức Giêsu là ơn cứu độ được Chúa dành sẵn cho muôn dân[6].
Isaia đã tiên báo một nhân vật bí nhiệm sẽ xuất hiện và được đầy tràn ân sủng Thánh Thần. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này, thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Chúa (Is 11,2). Tân ước đã đồng hóa vị này với Đức Giêsu. Và trong bài ca người tôi tớ của Isaia cũng cho thấy người này được đầy tràn ân sủng Thánh Thần[7].
Không chỉ có các ngôn sứ mà còn có cả các vua, các thủ lãnh, thẩm phán là những người thay mặt Chúa lãnh đạo dân Chúa cũng luôn được đầy tràn ân sủng Thánh Thần. Nhờ có ân sủng Thánh Thần hiện diện nơi họ mà họ mới có thể lãnh đạo dân Chúa theo đúng ý Chúa. Họ cũng là những người được xức dầu, dấu chỉ sự hiện diện của ân sủng Thánh Thần để họ chu toàn trách nhiệm của Thiên Chúa trao phó. Và ngay cả với những người bình thường, toàn thể nhân loại cũng được tràn đầy ân sủng Thánh Thần nhờ Đấng Mêsia, Đấng có ân sủng Thánh Thần cách viên mãn và ban cho toàn thể nhân loại để họ được cứu độ[8].
2.      Ân Sủng Thánh Thần Trong Khởi Nguyên Mới
Đức Giêsu là Đấng đánh dấu “khởi nguyên mới” vì chính Người là ân huệ của Thiên Chúa ban cho con người. Mở đầu sứ mạng công khai của Đức Giêsu, Người vào Hội đường tại Nazareth để đọc Kinh Thánh. Người mở sách Isaia và đọc đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng…” (Is 61,1). Sau đó, Người đã quả quyết đoạn Kinh Thánh đó đã ứng nghiệm nơi bản thân Người. Chính Người đã được sung mãn ân sủng Thánh Thần và thông ban ân sủng đó cho con người, đánh dấu một “khởi nguyên mới” của ân huệ Thiên Chúa.
Và sau khi đọc đoạn đó, Người nói cùng cử tọa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Bằng cách đó, Người tuyên xưng và công bố Người là Đấng đã được Chúa Cha “xức dầu”, là Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng có Chúa Thánh Thần ở cùng. Người chính là ân huệ của Thiên Chúa, là Đấng có Chúa Thánh Thần cách sung mãn, là Đấng đánh dấu “khởi nguyên mới” của ân huệ mà Thiên Chúa thể hiện cho nhân loại trong Thần Khí[9].
Thiên Chúa đã ban ân sủng Thánh Thần cho con người từ khi tạo thành, nghĩa là từ khởi nguyên. Thế nhưng tội lỗi đã làm cho con người chống lại Thần Khí Thiên Chúa, chống lại ân huệ của Thiên Chúa tự hiến cho con người là ân sủng Thánh Thần. Và chính tội lỗi đã làm cho con người phải lâm vào cảnh hư ảo. Mặc dù vậy nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người mà còn lại ban ân sủng Thánh Thần theo một cách thức khác để cứu độ con người.
Khi trình bày việc “ra đi” như một điều kiện để cho Đấng Bảo Trợ đến, Đức Kitô đã liên kết khởi nguyên mới của ân huệ trong đó Thiên Chúa tự hiến mình để cứu độ với mầu nhiệm Cứu Chuộc. Đó là một khởi nguyên mới, trước hết bởi vì, do sự sa ngã nguyên thủy, đã có tội xen vào. Tội chống lại sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa trong cuộc sáng tạo và nhất là, tội chống lại ân huệ Thiên Chúa tự hiến mình cho con người để cứu độ con người. Thánh Phaolô đã viết rằng chính vì tội mà “muôn loài thụ tạo phải lâm vào cảnh hư ảo…, cho đến bây giờ muôn loài thọ tạo cũng rên siết quằn quại như sắp sinh nở” và “những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Ngài”[10].
Trong khởi nguyên mới, ân sủng Thánh Thần phát xuất từ Cha và được Cha ban cho con người nhân danh Con. Cha lấy quyền làm Cha ban ân sủng Thánh Thần cho con người như Cha đã sai Con xuống thế, mở đầu cho khởi nguyên mới. Và cùng lúc này, ân sủng Thánh Thần cũng được ban cho con người theo quyền năng cứu độ của Đức Kitô hoàn thành. Khi Đức Kitô hoàn thành việc cứu độ, nghĩa là việc ra đi của Đức Giêsu đã xảy ra thì ân sủng Thánh Thần đến trên con người do quyền năng của Đức Kitô sai đến, do quyền năng cứu độ đã hoàn thành của Đức Kitô[11].
Đức Kitô ra đi làm cho các môn đệ buồn vì các môn đệ không hiểu việc ra đi đó. Việc ra đi này là việc Thiên Chúa cứu độ con người chứ không phải là việc lìa xa con người. Chỉ khi ân sủng Thánh Thần đến do việc ra đi của Đức Kitô thì các môn đệ mới hiểu và vui. Và chính ân sủng Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại cũng làm cho thân xác con người được sống lại như Đức Kitô, nghĩa là cứu độ toàn thể con người. Nhờ ân sủng Thánh Thần ngự trong con người thì con người mới có thể gọi Thiên Chúa là Cha[12].
Như thế, ân sủng Thánh Thần được ban trong khởi nguyên mới một cách dứt khoát và trọn vẹn. Trong đó, Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi tự hiến chính mình trong ân sủng Thánh Thần, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại và thế giới.
II. Ân Sủng Thánh Thần Tương Quan Với Mầu Nhiệm Đức Kitô
1.      Ân Sủng Thánh Thần Với Mầu Nhiệm Nhập Thể
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời (Ga 3,16). Thiên Chúa sai Con Một của Ngài xuống thế sinh bởi một người nữ để cứu độ con người. Điều kỳ diệu này đã xảy ra là nhờ bởi ân sủng Thánh Thần. Thánh Luca đã thuật lại cho chúng ta rằng khi Đức Maria được truyền tin sẽ sinh Đức Giêsu thì Mẹ thắc mắc, và Mẹ đã nhận được câu trả lời là việc đó do quyền năng Đấng Tối Cao, bởi ân sủng Thánh Thần. Còn thánh Matthêu thì cho chúng ta biết rằng Đức Maria mang thai Đấng Cứu Thế là do quyền năng Chúa Thánh Thần, chính là ân sủng Thánh Thần của Thiên Chúa. Vì thế, ngay từ đầu, Giáo hội đã tuyên xưng mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm gắn liền với ân sủng Thánh Thần. Như vậy, việc nhập thể của Chúa Con được thực hiện bởi Chúa Thánh Thần, ân sủng Thánh Thần của Thiên Chúa[13].
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu, là Ân Huệ bất thụ tạo, là nguồn mạch mọi ân huệ phát xuất từ Thiên Chúa. Vì thế, mầu nhiệm Nhập Thể là tột đỉnh của ân sủng Thánh Thần mà Thiên Chúa tự hiến cho con người trong sáng tạo và cứu độ. Khi Đức Maria nói tiếng xin vâng thì ngay lập tức mầu nhiệm Ngôi Hiệp được thực hiện bởi Chúa Thánh Thần. Nhờ việc nhập thể làm người của Chúa Con, Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho khởi nguyên mới và cứu độ toàn thể. Nhờ sự nhập thể này mà nhân tính được nâng lên kết hợp làm một với Thiên Chúa. Theo một nghĩa nào đó thì tất cả những gì là xác phàm, là toàn thể tạo thành cũng được nâng lên kết hợp với nhân tính và cùng được kết hợp với Thiên Chúa trong Chúa Con[14].
Nhờ ân sủng Thánh Thần, Thiên Chúa ban sự sống cho con người qua việc Nhập Thể.
Chỉ có thể ban sự sống, sự sống viên mãn ở nơi Thiên Chúa, bằng cách làm cho sự sống ấy thành sự sống của một con người, người ấy là Đức Kitô trong nhân tính của Người, một nhân tính đã được Ngôi Lời đảm nhận như một ngôi vị trong ngôi hiệp. Và cùng một trật nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, nguồn mạch của sự sống thần linh ấy tuôn ra một cách mới mẻ trong lịch sử nhân loại: đó chính là Chúa Thánh Thần[15].
Qua mầu nhiệm Nhập Thể, con người nhận biết Thiên Chúa và đón nhận ân sủng Thánh Thần. Thật vậy, chính Đức Giêsu đã nói ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha và chính Người lấy ân sủng Thánh Thần từ Chúa Cha mà ban cho con người.
Nơi Đức Giêsu Kitô, sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới và trong con người, đã được tỏ bày một cách mới mẻ và dưới dạng hữu hình. Nơi Người, quả thật, “ân sủng của Chúa đã được biểu lộ”. Tình yêu của Thiên Chúa Cha là Ân Huệ, là ân sủng vô biên, là nguyên lý sự sống đã thành hữu hình trong Đức Kitô, và nhờ nhân tính của Đức Kitô, đã trở nên “thành phần” của vũ trụ, của nhân loại, của lịch sử. Sự biểu lộ này của ân sủng trong lịch sử con người, nơi Đức Giêsu Kitô, đã được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần vì Ngài là nguyên lý của mọi hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới, Ngài là “Thiên Chúa ẩn tàng”, Đấng như Tình Yêu và Ân Huệ “lắp đầy vũ trụ”[16].
2.      Ân Sủng Thánh Thần Với Cuộc Khổ Nạn Của Đức Kitô
Trong bữa tiệc vượt qua, Đức Giêsu giới thiệu và hứa ban “Đấng Bảo Trợ” cho các môn đệ. Đấng Bảo Trợ này là Đấng Bảo Trợ thứ hai, Ngài đến để tiếp tục công việc của Đức Giêsu là Đấng Bảo trợ thứ nhất. Đấng Bảo Trợ này được Đức Giêsu cầu xin Chúa Cha ban cho vì công nghiệp cuộc khổ nạn của Người. Đấng Bảo Trợ này chính là Thần Khí sự thật, là ân sủng Thánh Thần. Có thể nói do cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô sẽ hoàn tất nên Thiên Chúa ban ân sủng Thánh Thần xuống cho Đức Giêsu để Người hoàn tất cuộc khổ nạn và ban theo ý Người xin.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi, đó là Thần Khí sự thật. Vị Thần Khí sự thật ấy, Đức Giêsu gọi Ngài là “Đấng An Ui”, “Đấng Cầu Bầu”, “Đấng Bảo Trợ”. Và Người nói Chúa Thánh Thần là Đấng thứ hai bởi chính Đức Giêsu là Đấng Bảo trợ thứ nhất, vì là Đấng đầu tiên đem đến và ban bố Tin Mừng. Chúa Thánh Thần đến sau Người và nhờ Người, để tiếp tục trong thế giới, qua Giáo hội, công trình loan báo Tin Mừng cứu độ[17].
Đấng Bảo Trợ chính là ân sủng Thánh Thần được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là ân sủng Thánh Thần đi liền với cuộc khổ nạn của Đức Kitô; ân sủng Thánh Thần là kết quả, là hệ quả, là hiệu quả của cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Vì chỉ khi Đức Giêsu “ra đi”, đồng nghĩa với việc hoàn tất cuộc khổ nạn, thì Chúa Thánh Thần mới đến. Và nhiệm vụ của Đấng Bảo Trợ là làm cho các môn đệ nhớ lại những điều Đức Giêsu đã nói, dạy bảo cho các môn đệ hiểu những gì chưa hiểu và hiểu cho đúng nội dung sứ điệp của Đức Kitô, nghĩa là lúc đó Đức Kitô đã hoàn tất cuộc khổ nạn và không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ nữa[18].
Ân sủng Thánh Thần được ban cho con người do quyền năng cứu độ của Đức Kitô hoàn thành là điều tất yếu. Ngay chính các thương tích của Đức Kitô trong cuộc khổ nạn phải chịu vì con người cũng đủ để ân sủng Thánh Thần được ban xuống cho con người. Khi sống lại, Đức Giêsu cho các Tông đồ xem các thương tích ở tay và cạnh sườn của Người, rồi Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 19,22). Qua đó cho chúng ta thấy Đức Kitô ban Thánh Thần cho các Tông đồ xuyên qua các thương tích khi Người chịu đóng đinh trên thập giá[19].
Chúa Thánh Thần và các Tông đồ cùng loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng cứu độ, được thực hiện qua Thập Giá Đức Kitô. Các Tông đồ liên kết với Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Loan báo Tin Mừng tức là làm chứng về Đức Giêsu Kitô. Chúa Thánh Thần là Thần Khí sự thật làm chứng về Đức Giêsu Kitô và các Tông đồ cũng vậy. Chứng từ của các Tông đồ là chứng từ của con người, do mắt thấy tai nghe, có tính cách lịch sử về Đức Kitô được liên kết với chứng từ của Chúa Thánh Thần là Thần Khí sự thật, Đấng thấu suốt tất cả. Nhờ chứng từ của Thần Khí sự thật mà chứng từ của các Tông đồ có nền tảng bên trong để những người tin vào Đức Kitô tiếp tục làm chứng[20]. Như thế cho ta thấy ân sủng Thánh Thần có nhiệm vụ làm chứng về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô và làm cho lời chứng đó sống động, tồn tại từ thế hệ này tới thế hệ khác, sinh ơn cứu độ cho con người.
Như vậy, dựa vào những điều Đức Giêsu nói trong bữa tiệc Vượt Qua, Chúa Thánh Thần được mạc khải một cách mới mẻ và đầy đủ hơn. Ngài là Đấng phát xuất từ Chúa Cha, được sai đến như ân huệ ban cho Chúa Con và ban cho con người nhân danh Chúa Con. Ngài hiệp thông đặc biệt với Đức Kitô, dẫn đưa các Tông đồ và Giáo hội tới sự thật vẹn toàn.
Ngài không phải chỉ là ân huệ ban cho con người mà Ngài còn là một Đấng Ân Huệ. Đức Giêsu loan báo Người tới như là “một Đấng Bảo Trợ” khác; vì là Thần Khí sự thật, Người dẫn đưa các Tông đồ và Giáo hội tới sự thật toàn vẹn. Điều này được thực hiện nhờ sự hiệp thông đặc biệt giữa Chúa Thánh Thần và Đức Kitô. […]. Phát xuất từ Chúa Cha, Chúa Thánh Thần được sai đến từ nơi Chúa Cha. Chúa Thánh Thần trước hết, đã được sai đến như ân huệ ban cho Chúa Con, Đấng đã làm người, để thực hiện những lời sấm ngôn về Đấng Mêsia. Theo bản văn của Gioan, sau khi Đức Kitô – Chúa Con “ra đi”, Thánh Thần “sẽ đến” trực tiếp, đó là sứ mạng mới của Ngài, để hoàn tất công trình của Chúa Con. Như vậy chính Ngài là Đấng dẫn đưa kỷ nguyên mới của lịch sử cứu độ đến điểm hoàn thành[21].
3.      Ân Sủng Thánh Thần Với Sự Phục Sinh Của Đức Kitô
Khi Phục Sinh, Đức Kitô được tôn vinh trong Chúa Thánh Thần. Người không cầu xin với Chúa Cha ban Thánh Thần Cho các Tông đồ nữa, mà chính Người, Đức Kitô đã tỏ mình như là Đấng mang Thần Khí và ban Thần Khí cho các Tông đồ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 19,22). Đức Giêsu Kitô, Đấng đến trong Thánh Thần và Người mang Thánh Thần như ân huệ riêng của mình, giờ đây, khi Phục Sinh, Người thông truyền ân sủng Thánh Thần này cho các Tông đồ và Giáo hội, và qua đó được ban cho toàn thể nhân loại và thế giới. Thời điểm Phục Sinh cũng là thời điểm cho việc Chúa Thánh Thần ngự đến một cách mới mẻ như là Đấng Bảo Trợ và Thần Khí sự thật. Thánh Thần như một Đấng là Ân Huệ được thực hiện vào chính lúc ấy. Đó cũng là thời điểm mà Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi tự ban chính mình cho nhân loại trong ân sủng Thánh Thần[22].
Cuối số 23 còn nói về việc Đức Kitô ban ân sủng Thánh Thần như sau:
Còn trong việc Chúa con trao ban, Tình Yêu vĩnh cửu được mạc khải trọn vẹn với tất cả sự hào phóng vô biên. Ân huệ này là chính Chúa Thánh Thần ở nơi sâu thẳm khôn lường của Thiên Chúa, nhờ sự nghiệp của Chúa Con, nghĩa là nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, mà Ngài được ban một cách mới mẻ cho các Tông đồ và Giáo hội, rồi qua các vị ấy được ban cho toàn thể nhân loại và cho thế giới[23].
Ân sủng Thánh Thần được ban một cách dứt khoát vào ngày Phục Sinh. Chính Đức Kitô Phục Sinh thực hiện lời Thiên Chúa hứa ban ân sủng Thánh Thần cho dân Chúa qua miệng ngôn sứ; nghĩa là Người ban Thần Khí của Thiên Chúa cho dân Chúa với tư cách là Đấng Mêsia trong Thánh Thần, đạt đến tột đỉnh trong việc Phục Sinh. Người cũng thực hiện lời Người đã hứa với các Tông đồ là Người ban Thánh Thần cho các ông khi Người Phục Sinh. Khi Phục Sinh, nhờ Thần Khí thánh hóa, Người được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
Quyền năng ấy bắt nguồn từ sự hiệp thông khôn lường của Ba Ngôi Thiên Chúa, được biểu lộ trước hết trong sự kiện là, một đàng, Đức Kitô Phục Sinh thực hiện lời Thiên Chúa hứa qua miệng ngôn sứ: “Ta sẽ tặng các ngươi một quả tim mới. Ta sẽ cho các ngươi Thần Khí của Ta”, và đàng khác, Người cũng thực hiện chính lời Người đã hứa với các Tông đồ: “Nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Ngài đến với anh em”. Chính Ngài, Thần Khí Sự Thật, Đấng Bảo Trợ, được Đức Kitô Phục Sinh sai đến để biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở nên chính hình ảnh của Đấng Phục Sinh[24].
Sự liên kết mật thiết giữa việc sai Chúa Con với việc sai Chúa Thánh Thần đến và sự liên kết mật thiết giữa sứ mạng của Chúa Thánh Thần với sứ mạng của Chúa Con trong công trình cứu chuộc cho chúng ta thấy ân sủng Thánh Thần được ban xuống cho con người sau tội nguyên tổ là nhờ Thập giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Sự liên kết này được diễn tả như sau:
Sứ mạng của Chúa Con, theo một nghĩa nào đó, được “hoàn tất”, trong việc cứu chuộc: “Ngài lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em”. Việc cứu chuộc được hoàn tất đầy đủ bởi Chúa Con, như là Đấng được xức dầu, đã đến và đã hành động bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, tự hiến mình làm tế phẩm tối hậu trên cây Thập Giá. Và việc cứu chuộc cũng còn được tiếp tục hoàn thành trong lòng trí con người, trong lịch sử thế giới bởi Chúa Thánh Thần là “Đấng Bảo Trợ khác”[25].
Chúa Thánh Thần như là ân sủng được Đức Kitô Phục Sinh sai đến để thánh hóa Giáo hội, làm cho Giáo hội và nhân loại được sống nhờ một Thần Khí duy nhất. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, ân sủng Thánh Thần được ban xuống cho các Tông đồ và Giáo hội một cách đặc biệt và dứt khoát. Có thể nói, bắt đầu từ biến cố Ngũ Tuần này, các Tông đồ công khai làm chứng cho Đức Kitô nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Như thế là cả Chúa Thánh Thần và các Tông đồ cùng làm chứng cho Đức Kitô. Và cũng trong biến cố này, Giáo hội được công khai giới thiệu trước mặt nhân loại. Đồng thời ân sủng Thánh Thần cũng được ban luôn mãi cho Giáo hội; điều này được diễn tả như sau:
Thật vậy, ân sủng Chúa Thánh Thần mà các Tông đồ ban cho các cộng sự viên của các ngài, bằng cách đặt tay, tiếp tục được truyền ban qua việc tấn phong giám mục. Rồi nhờ bí tích truyền chức thánh, các giám mục làm cho các thừa tác viên thánh được thông phần vào ân huệ thiêng liêng này, và các vị cũng lo cho tất cả những ai được tái sinh bởi nước và Thần khí được mạnh mẽ hơn nhờ bí tích Thêm Sức. Như vậy, ơn Hiện Xuống được tiếp diễn mãi mãi trong Giáo hội một cách chắc chắn[26].
III. Ân Sủng Thánh Thần Nơi Giáo Hội
1.      Ân Sủng Thánh Thần Cứu Chuộc Con Người
Chúng ta biết rằng Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ thứ hai, là Thần Khí sự thật, là Ân Huệ của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Người đã được ban cho nhân loại và cách riêng cho Giáo hội để Người tiếp tục công trình cứu chuộc và thánh hóa con người của Đức Giêsu Kitô. Đặc biệt, Người chính là ân sủng Thánh Thần được ban cho Giáo hội để qua Giáo hội con người được cứu chuộc bởi ân sủng Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là ân sủng luôn hiện diện trong đời sống Đức Giêsu. Nhờ Thánh Thần thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế dâng lên Thiên Chúa làm giá chuộc muôn người. Nhờ Thập giá Đức Kitô mà tội lỗi bị tiêu diệt và sinh ơn cứu độ. Có thể nói công trình cứu chuộc của Đức Kitô cũng chính là công trình của Chúa Thánh Thần, là công trình của ân sủng Thánh Thần. Và chính Chúa Thánh Thần này cũng được ban cho các Tông đồ khi Đức Giêsu sống lại để các Tông đồ cũng tha tội cho người khác do bởi ân sủng Thánh Thần này[27]. Điều này được nói đến trong thông điệp như sau:
Thật vậy, đây là một hiến tế được tiến dâng “nhờ Thánh Thần hằng hữu”, hiến tế này nhận được ở Ngài sức mạnh vạch tội ngõ hầu đem lại ơn cứu độ. Đây cũng chính là Chúa Thánh Thần được Đức Giêsu hứa ở nhà Tiệc Ly. Người mang Thánh Thần này tới cho các Tông đồ vào ngày Người sống lại, khi hiện ra cho các ông với các thương tích do cuộc đóng đinh để lại, và Người “ban cho các ông để tha tội”: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha” (Ga 19,22-23)[28].
Trong ngày lễ Ngũ tuần, các Tông đồ và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng cho Đức Kitô, Đấng đã bị đóng đinh và được sống lại. Qua miệng thánh Phêrô, Thần Khí sự thật đã chỉ cho người nghe nhận biết tội lỗi của mình; và chính nhờ ân sủng này thúc đẩy mà họ đã hoán cải và đón nhận ơn cứu độ qua phép rửa của Giáo hội nhân danh Đức Giêsu Kitô trong ân sủng Thánh Thần[29].
Thần Khí sự thật thấu suốt mọi sự, chính vì thế mà Ngài thúc đẩy trên lương tâm con người để lương tâm con người nghe thấy tiếng Chúa, biết làm lành lánh dữ. Nhờ tiếng lương tâm, con người chiến đấu để gắn bó với sự thiện với sự trợ giúp của ân sủng Thánh Thần. Trong ân sủng Thánh Thần, lương tâm chỉ đường cho con người hoán cải để lãnh nhận ơn cứu độ. Trong từng trường hợp cụ thể của tiến trình hoán cải đều có sự hiện diện và trợ giúp của ân sủng Thánh Thần để con người nhận biết và trở về với Tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần là Ân Huệ, là Tình Yêu, thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa là cứu độ con người[30].
Mọi hoạt động của Giáo hội đều nhắm đến việc cứu độ con người. Vì Giáo hội là phương thế Thiên Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Vì Giáo hội là bí tích của Đức Giêsu Kitô đem lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Con hiện diện trong Giáo hội dưới hình thức bí tích nhờ Chúa Thánh Thần.           Vì thế cho nên chính Chúa Thánh Thần là chủ thể mọi hoạt động của Giáo hội, Giáo hội có hoạt động được là do Chúa Thánh Thần, do ân sủng Thánh Thần của Thiên Chúa. Khi Giáo hội cử hành bí tích thì Đức Kitô lại đến một cách mới mẻ nhờ Chúa Thánh Thần hoạt động trong bí tích để cứu độ con người. Và khi cử hành mầu nhiệm “ra đi” của Đức Giêsu thì Chúa Thánh Thần lại đến để ban sự sống. Khi đó, chính Chúa Thánh Thần củng cố nội tâm con người, hướng dẫn và hiệp nhất các Kitô hữu trong bí tích Thánh Thể. Cùng lúc đó, Giáo hội được hiệp nhất với Thiên Chúa trong Đức Kitô nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Ngay cả trong việc cầu nguyện, chính Chúa Thánh Thần cũng hướng dẫn Giáo hội và từng người để lời cầu nguyện hợp với thánh ý Thiên Chúa hầu nhờ đó mà đem lại ơn cứu độ cho con người[31]. Như thế, qua mọi hoạt động của Giáo hội, chính Chúa Thánh Thần là ân sủng đem lại ơn cứu độ.
2.      Ân Sủng Thánh Thần Công Chính Hóa Con Người
Sau khi nghe thánh Phêrô làm chứng về Đức Giêsu trong ngày lễ Ngũ tuần thì những người có mặt ở đó hỏi họ phải làm gì. Thánh Phêrô trả lời rằng phải sám hối và phải chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội và sẽ nhận được ân huệ là Chúa Thánh Thần. Qua phép rửa, con người trở nên con Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô. Nhưng chính sự tái sinh lại được thực hiện nhờ Thần Khí. Và chính Thần Khí mới làm cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Cha, nghĩa là làm cho chúng ta nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được đồng thừa kế với Đức Kitô. Như thế chúng ta được biến đổi, được công chính hóa là nhờ Đức Kitô, do ân sủng Chúa Thánh Thần thực hiện[32]. Trong số 52 của thông điệp xác định việc này như sau:
Việc Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử, và trở nên con Thiên Chúa, có được là nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, nghĩa là nhờ ân huệ của Đức Kitô, Người Con hằng hữu. Nhưng sự sinh ra, hay sự tái sinh, được thực hiện khi Chúa Cha “sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng chúng ta. Bởi vì lúc đó chúng ta nhận được “một Thần Khí làm cho chúng ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta kêu lên: “Abba, Cha oi”. Như vậy, quyền làm con Thiên Chúa đó được tháp vào linh hồn con người nhờ ơn thánh sủng lại là công trình của Chúa Thánh Thần. Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta, rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là kẻ thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô. Ơn thánh sủng trong con người là nguyên lý và nguồn mạch của sự sống mới: sự sống thần linh và siêu nhiên[33].
Ơn ban sự sống này đã có từ khi tạo thành và cho cả tạo thành. Thế nhưng vào thời sau hết, ơn ban sự sống lại được đổi mới bằng mầu nhiệm Nhập Thể. Con người được nên công chính, được làm con Thiên Chúa nhờ Nhập Thể của Chúa Con do tình yêu và ân huệ là chính Chúa Thánh Thần. «Như vậy, con người được nhận làm nghĩa tử một cách siêu nhiên và ơn đó bắt nguồn từ Chúa Thánh Thần là Tình Yêu và Ân Huệ. Trong tư cách đó, Ngài được ban cho loài người. Và nhờ sự sung mãn của Ân Huệ bất thụ tạo, mỗi người lãnh nhận được trong lòng, ân ban đặc biệt làm cho con người “được thông phần vào bản tính Thiên Chúa”»[34].
Chính Chúa Thánh Thần được ban cho Giáo hội đã lấy từ trong kho tàng ơn cứu độ của Đức Kitô mà ban cho con người sự sống mới. Ngài làm cho ta nên nghĩa tử của Thiên Chúa trong Người Con duy nhất của Thiên Chúa. Như thế, con người được nên công chính nhờ thông phần vào Nhập Thể trong ân sủng Thánh Thần. Cũng chính ân sủng Thánh Thần này tác động trên con người mọi nơi mọi thời và liên kết họ với mầu nhiệm Nhập Thể để họ cũng được công chính hóa[35].
Trong Giáo hội và qua Giáo hội, con người được biến đổi từ bên trong nhờ Thần Khí. Hiệp thông với Thần Khí, Giáo hội ý thức hơn ai hết về thực tại của con người nội tâm. Trong mức sâu thẳm đó, Thần Khí gieo vào con người mầm mống bất tử, làm nảy sinh sự sống mới. Sự sống đó là hoa trái của ân huệ Thiên Chúa tự hiến chính mình Ngài trong Thánh Thần. Sự sống đó chỉ có thể phát triển và được củng cố nhờ tác động của Thần Khí. Đồng thời, Giáo hội cũng loan báo Đấng ban sự sống: Thần Khí làm cho sống. Giáo hội vừa loan báo vừa cộng tác với Thần Khí để ban sự sống. Như thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (Rm 8,10)[36].
Kết Luận
Qua khảo sát Thông điệp Dominum et vivificantem dưới khía cạnh ân sủng cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng giàu tình thương. Người luôn luôn hiện diện và ban ân sủng cho tạo thành của Ngài, đặc biệt là cho con người để con người nhận biết, đón nhận và sống trong tình thương của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần là Tình Yêu, là Ân Huệ của Thiên Chúa được ban cho con người ngay từ khi tạo thành để qua đó Thiên Chúa ban chính mình Ngài cho nhân loại và cho cả tạo thành.
Ngay từ khởi nguyên, vì tình thương, Thiên Chúa đã ban ân sủng Thánh Thần cho con người và ân sủng này đã hiện diện nơi con người. Thế nhưng con người đã từ chối và chống lại ân sủng đó. Không vì đó mà Thiên Chúa bỏ rơi con người, Người lại tiếp tục ban ân sung Thánh Thần cho con người một cách mãnh liệt hơn khi sai chính Con Một Ngài xuống thế cứu độ nhân loại. Việc Nhập Thể của Chúa Con được xem là một khởi nguyên mới. Ân sủng Thánh Thần được ban cho con người qua việc Nhập Thể đánh dấu một cuộc khởi nguyên mới của ân sủng.
Ân sủng Thánh Thần luôn đi liền và liên kết với mầu nhiệm Đức Kitô. Từ Nhập Thể, rồi đến cuộc Khổ nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa luôn ban tràn đầy ân sủng Thánh Thần cho Người. Và nhờ quyền năng cứu độ hoàn thành của Đức Giêsu Kitô mà ân sủng Thánh Thần được ban cho con người một cách đặc biệt và viên mãn.
Trong ngày lễ Ngũ tuần, Giáo hội đã lãnh nhận ân sủng Thánh Thần như lời Đức Kitô đã hứa và ân sủng này hiện diện luôn mãi với Giáo hội và nhân loại. Cùng với Giáo hội, ân sủng Thánh Thần làm chứng về Đức Giêsu Kitô và tiếp tục công trình cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ sự liên kết và đi liền với mầu nhiệm Đức Kitô mà qua Giáo hội, ân sủng Thánh Thần cứu chuộc và công chính hóa con người. Và qua mọi hoạt động của Giáo hội, chính Chúa Thánh Thần là chủ thể, thế nên chính ân sủng Thánh Thần cứu chuộc và công chính hóa con người qua Giáo hội và trong Giáo hội.
Như thế, ân sủng Thánh Thần mà Thiên Chúa ban cho chúng ta chính là Tình Yêu của Ngài, là Ân Huệ của Ngài, nguồn mạch mọi ân sủng. Chúng ta phải hết sức đón nhận, yêu mến và trung thành với ân sủng này, để nhờ đó sinh hoa kết quả là ơn cứu cho chúng ta và cho người khác. Đồng thời chúng ta cũng phải giới thiệu ân sủng này cho mọi người để họ cùng đón nhận và cùng được ơn cứu độ.



[1] X. ĐGH (Đức Giáo Hoàng) Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 1.
[2] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 3.
[3] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, cuối số 10.
[4] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 10.
[5] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 12.
[6] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 16.
[7] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 15-16.
[8] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 16.
[9] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 18.
[10] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 13.
[11] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 8.
[12] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 14.
[13] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 49.
[14] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 50-51.
[15] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 52.
[16] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 54.
[17] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 3.
[18] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 4, 6,8.
[19] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 24.
[20] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 5, 7.
[21] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 22.
[22] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 22-23.
[23] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 23.
[24] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 24.
[25] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thán Thần, số 24.
[26] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 25.
[27] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 40, 42.
[28] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 40.
[29] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 30-31, 42.
[30] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 39, 42-45.
[31] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 61-65.
[32] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 31, 52.
[33] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 52.
[34] X.ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 52.
[35] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 52-53.
[36] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần, số 58.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
BACK TO TOP