Chúng ta có thể đã từng nghe một người thân yêu của chúng ta sắp đi xa trăn trối. Thường thì những lời cuối cùng luôn là những lời nói quan trọng của người đi xa đối với người ở lại. Nhưng có một lời trăn trối không phải của riêng một ai đã được lưu truyền qua gần 2000 năm từ thời các tông đồ đến giờ và mãi mãi về sau lời trăn trối đó vẫn thôi thúc nhân loại. Đó chính là lời căn dặn sau cùng của Chúa Giêsu là “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ , làm phép rửa cho họ… dạy họ điều Thầy đã truyền cho anh em. Và Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Vậy chúng ta phải làm gì để mà thực hiện lời trăn trối này của Chúa Giêsu?
Có thể gọi nôm na công việc này là truyền giáo. Truyền giáo có nhiều cách nếu như trước kia đề cao việc đi rao giảng và kêu gọi người ta lãnh nhận phép rửa. Ngày nay vấn đề truyền giáo có thể đa dạng hơn rất nhiều, tuy nhiên hình thức rao giảng vẫn là một trong những hình thức rất quan trọng. Tại sao chúng ta phải truyền giáo? Vì chúng ta là anh em của Đức Kitô, nên chúng ta có nhiệm vụ thực hiện lệnh truyền của Người. Hơn nữa chúng ta trở nên thiết nghĩa với Đức Kitô khi chúng ta lãnh nhận bí tích thanh tẩy là chúng ta trở nên thân thể của Người như là cây nho liền với cành nho; Để cho mọi người có thể nhận biết Đức Kitô Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người và yêu thương hết mọi người và muốn cho tất cả được hưởng hạnh phúc đời đời với Người trên thiên đàng. Dạy giáo lý cũng là một công việc của truyền giáo. Và những người rao giảng về Chúa như vậy được gọi là giáo lý viên.
Giáo lý viên là những người không chỉ dạy kiến thức giáo lý, mà còn là người giáo dục và hướng dẫn đức tin cho học viên giáo lý của mình. Vậy ta có thể nói công việc chính của giáo lý viên chính là “trình bày Lời Chúa một cách đơn giản cụ thể và sống động, để giúp các em có thể hiểu và sống đức tin. Từ rất sớm người ta đã dùng thuật ngữ “dạy giáo lý” để gọi toàn thể các nỗ lực của Giáo hội nhằm đào tạo các môn đệ, để giúp mọi người tin rắng Đức Giê su chính là con Thiên Chúa, để rồi nhờ đức tin và việc dạy dỗ ấy, họ được sống nhân danh Đức Kitô ngay giữa lòng đời, góp phần xây dựng thân mình Đức Kitô là Giáo hội”[1]. Như vậy việc dạy giáo lý đã có từ rất lâu đời và có thể nói người dạy giáo lý đầu tiên chính là Chúa Giêsu. Qua định nghĩa về dạy giáo lý ở trên chúng ta nhận thấy mục đích chính là việc giáo dục đức tin cho học viên. Đây quả thật là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Nếu như một giáo viên dạy toán học, dạy văn học, dạy về lịch sử…, dạy tốt khi truyền đạt được những kiến thức chuyên môn cho học viên bằng phương pháp hiệu quả nhất là đã đạt yêu cầu. Còn một giáo lý viên nếu chỉ làm mỗi bổn phận truyền đạt kiến thức về giáo lý, kinh thánh… thì chưa được gọi là đã hoàn thành nhiệm vụ. Mà giáo lý viên phải hơn thế nữa, chính là những người có một đời sống đức tin sống động để nêu gương cho các học viên của mình. Trong khuôn khổ của bài này người viết chỉ muốn tìm hiểu về thực trạng giáo lý viên ngày nay, và đề cập một số phương pháp kêu gọi sự cộng tác của những Kitô hữu vào việc dạy giáo lý.
Theo số liệu thống kê tính đến hết năm 2007, dân số nước Việt nam là khoảng 85 triệu người. Trong đó người công giáo là 6.087.569 người thuộc 26 giáo phận. Tổng số giáo lý viên để phục vụ việc dạy giáo lý là 56.133 người. Chúng ta thấy đây quả là một con số quá khiêm tốn để phục vụ việc dạy giáo lý cho những người có đạo, đó là chưa kể để phục vụ nhu cầu truyền giáo. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu nguyên nhân tại sao mà con số giáo lý viên của giáo hội công giáo Việt Nam quá ít ỏi như vậy.
Trước khi tìm hiểu thực trạng chúng ta cũng nên phân tích đâu là những thuận lợi và khó khăn. Có thể nói phần lớn các giáo xứ đều có chung khó khăn là thiếu đội ngũ người Kitô hữu tham gia giáo lý viên. Vậy đâu là những thuận lợi và đâu là những khó khăn?
Những thuận lợi:
Kể từ thời các giáo sĩ phương tây bắt đầu truyền giáo vào Việt nam những năm 1533 đến nay đã được 476 năm, tính ra gần 5 thế kỷ. Với sự phát triển của xã hội cũng đã có những điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của Giáo hội Công giáo và của giáo lý viên. Có thể liệt kê ra một số thuận lợi cho việc đạo tạo giáo lý viên. Số lượng linh mục, tu sĩ đã tăng rất nhiều, sẽ là những giáo lý viên gương mẫu và là đội ngũ đào tạo giáo lý viên hiệu quả nhất. Ngày này đã có nhiều linh mục tu sĩ được đào tạo tại các chủng viện, các học viện thần học một cách cách bài bản, và còn được gởi đi đào tạo chuyên sâu ở nước ngoài. Đồng thời ngày nay thông tin và truyền thông phát triển mạnh mẽ, là điều kiện thuận lợi để giúp các giáo lý viên tiếp cận được thông tin và cùng học hỏi trao đổi với nhau. Trong đó phải kể đến là các sách về Kinh Thánh, thần học, giáo lý, mạng Intrernet…, đây có thể được xem là những thuận lợi giúp giáo lý viên nâng cao kiến thức giáo lý của mình.
Một thuận lợi nữa không thể không nhắc đến là ngày nay môi trường để hoạt động truyền giáo nói chung và dạy giáo lý nói riêng đã được cởi mở rất nhiều. Ngày nay có thể tổ chức lớp giáo lý cách dễ dàng tại các nhà thờ, cũng như tại nhà một học viên nào đó. Rõ ràng so với trước đây hoạt động tôn giáo đã thuận lợi rất nhiều. Cũng cần nói thêm rằng, hiện nay có nhiều nơi như các trung tâm mục vụ, trung tâm giáo lý tại các giáo phận, các dòng tu cũng đã mở các lớp đào tạo giáo lý viên định kỳ. Đó là những đóng góp rất lớn trong việc đào tạo giáo lý viên.
Những khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi vừa kể chúng ta cũng thấy sẽ không ít khó khăn. Khó khăn từ nhiều phía. Đối với giáo xứ, có thể nói một giáo xứ có được lực lượng giáo lý viên hùng hậu và hiệu quả hay không dường như phụ thuộc rất nhiều vào vị lãnh đạo cao nhất của xứ đạo đó là cha xứ. Tuy nhiên do phải quán xuyến bao nhiêu là công việc đối với nhiệm vụ quản trị một giáo xứ, mà rất nhiều cha xứ chưa quan tâm đủ, hay chỉ quan tâm cách qua loa, nên không có sự cộng tác của các Kitô hữu trong việc dạy giáo lý. Còn những giáo lý viên đã có, cũng không được đào tạo cơ bản để có thể cộng tác hiệu quả vào việc dạy giáo lý. Còn với các Kitô hữu, mỗi người mỗi hoàn cảnh, người lớn thì phải lo công việc của gia đình lo kiếm tiền nuôi con cái ăn học, nên không có thời gian để cộng tác dạy giáo lý trong xứ đạo. Còn những thanh niên nam nữ, các em phải đi học xa, hay đi làm công nhân ở thành phố lớn, đó là những giáo xứ ở tỉnh lẻ. Còn những thanh niên nam nữ ở nhà thì đa số lại không có trình độ, nghỉ học sớm và phải phụ giúp công việc cho gia đình nên cũng không thể tham gia giáo lý viên.
Nói chung tình hình thiếu giáo lý viên này đang là một khó khăn của rất nhiều xứ đạo ở Việt nam cũng như là của cả Giáo hội toàn cầu. Ở đâu cũng có những thuận lợi và khó khăn, có nơi gặp khó khăn về nhân sự, có nơi khó khăn về điều kiện để sinh hoạt, có nơi khó khăn về vấn đề đào tạo, kinh phí cho việc đào tạo. Sau đây tôi xin mạo phép được góp một vài ý kiến cá nhân để khắc phục hiện trạng thiếu giáo lý viên ngày nay.
Trước tiên cha xứ phải nhắc nhở chính mình và mỗi thành viên trong xứ đạo ý thức mình là một người giáo lý viên (vì chúng ta được tháp nhập vào Chúa Kitô, qua phép Rửa chúng ta lãnh nhận chức tư tế và ngôn sứ của Chúa Kitô nên công việc rao giảng lời Chúa là trách nhiệm của mỗi một tín hữu). Chính cha xứ phải coi công việc dạy giáo lý là bổn phận của mình. Hiện nay có những cha xứ phó mặc công việc dạy giáo lý cho một vài người hay các giáo lý viên của xứ. Có cha xứ còn coi việc dạy giáo lý này chỉ là việc thứ yếu không quan trọng bằng việc xây dựng, không quan trọng bằng lo xin tiền để xây dựng và để làm các công tác xã hội khác. Chúng ta thiết nghĩ cho dù nhà thờ, nhà xứ có được xây dựng khang trang hoành tráng, có thực hiện nhiều công tác bác ái đi chăng nữa mà đời sống đạo của tín hữu sa sút, bỏ lễ, bỏ đạo,bất hòa chia rẽ, chia phe đấu đá lẫn nhau thì cũng chẳng ích lợi chi. Cho nên công việc dạy giáo lý phải là một việc tối cần thiết và quan trọng hàng đầu với linh mục phụ trách giáo xứ. Nếu việc dạy giáo lý là quan trọng trong mục vụ giáo xứ, thì việc quan tâm và đào tạo đội ngũ giáo lý viên là công việc không thể bỏ qua của các vị lãnh đạo giáo xứ. Vậy phải quan tâm những vấn đề gì?
Quan tâm hàng đầu là làm sao phải kêu gọi và quy tụ được những Kitô hữu sẵn sàng dấn thân cho việc dạy giáo lý. Một số linh mục có suy nghĩ giáo lý viên phải là những người lớn (trung niên) có trình độ và kinh nghiệm mới có thể dạy giáo lý được, nên chỉ kêu mời những người lớn tuổi, mà bỏ qua đội ngũ giới trẻ. Cũng có những giáo xứ xem việc dạy giáo lý là một công việc đòi hỏi phải năng động, nên chỉ mời các thanh niên nam nữ trong xứ cho công việc dạy giáo lý và loại bỏ những người đã lớn tuổi (độ tuổi trung niên), đôi khi họ là những người rất quan tâm và muốn cộng tác để dạy giáo lý. Cần phải kêu gọi và kết hợp tất cả những ai có thiện chí để làm công việc dạy giáo lý trong xứ đạo.
Một việc nữa cũng quan trọng đó là việc đào tạo giáo lý viên. Linh mục phụ trách xứ phải nhận ra được những hạn chế ở giáo lý viên của giáo xứ mình, từ đó lên kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên để việc dạy giáo lý đạt hiệu quả nhất. Bên cạnh đó cũng phải giáo dục và hướng dẫn giáo lý viên cả về mặt kiến thức Kinh Thánh, nhân bản và hướng dẫn đời sống đức tin cho giáo lý viên để họ có thể sống gương mẫu từ đó giáo lý viên sẽ là những chứng nhân sống động trong sứ vụ giáo lý viên của mình.
Theo cố Đức Thánh cha Gioan Phao lô II thì “nhà truyền giáo đích thực chính là một vị thánh” giáo lý viên chính là những người đang tiếp tục cộng tác vào việc truyền giáo theo lệnh truyền của Chúa Kitô. Chính vì vậy theo Đức Thánh Cha, giáo lý viên chính là một ơn gọi cao quý như những ơn gọi khác trong Giáo hội.
Tóm lại cộng tác vào việc dạy giáo lý là trách nhiệm của tất cả mọi Kitô hữu, bất kể đó là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, hay giáo dân…đó cũng là một ơn gọi cao quý mà chính Chúa Giêsu đã nêu gương trong mầu nhiệm nhập thể của Người và sứ vụ đó đã được Chúa thực hiện cho đến hơi thở cuối cùng, khi trên thánh giá Người còn dạy giáo lý cho người trộm cùng chịu đóng đinh. Cho nên công việc này không phải chỉ làm một vài năm là đủ, mà cần phải gắn bó cả đời. Cho nên những người có trách nhiệm cần khơi gợi lên tinh thần truyền giáo bằng cách dạy giáo lý trong khu vực của mình phụ trách và sẵn sàng đón nhận sự cộng tác của những Kitô hữu có thiện chí. Để kết thúc người viết xin nêu ra một chuyện như sau. Tôi có dịp được dạy giáo lý chung với một bà cụ khoảng 70 tuổi ngoài, bà đã dạy giáo lý khoảng hơn kém 50 năm cho giáo xứ tôi không nhớ rõ lắm, bà còn là ca trưởng của một ca đoàn nữa. Tôi hỏi sao bà lớn tuổi rồi không nghỉ ngơi bà nói, bây giờ yêu các em thiếu nhi lắm không đi dạy không chịu được và dạy cho đến khi cha sở không cần nữa mới thôi. Bà là người rất yêu quý thiếu nhi và các em cũng rất yêu quý bà, bà sẵn sàng nhận những lớp có các em rất nhỏ khoảng 4, 5 tuổi, có khi bà chỉ dạy cho các em cúi chào Chúa, cách làm Dấu Thánh Giá, cách đi đứng, chào hỏi, đôi khi thấy bà cho các em cục kẹo cái bánh, mà lúc nào tôi cũng thấy cụ bà luôn mang lại niềm vui tất cả cho các em khi đến nhà thờ lễ và học giáo lý, bà làm mọi cách để các em biết Chúa. Còn tôi cũng dạy giáo lý nhưng xong một buổi đôi lúc tôi còn cảm thấy mệt mỏi và cũng có khi chán nản với các em thiếu nhi, nhưng thấy bà luôn tươi cười không bao giờ than trách và kêu mệt mỏi, làm tôi cảm thấy ái ngại. Thái độ và tinh thần hăng say nhiệt tình dạy giáo lí của bà vẫn luôn ấn tượng với tôi.
Bathelemy Khánh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét