TRONG HÔN NHÂN?
Trong suy nghĩ của nhiều người, tính dục luôn là một đề tài tế nhị và đôi khi nó cũng đồng nghĩa với những điều cấm kị dù là trong đời sống hôn nhân giữa hai người với nhau. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, người viết nhận thấy nhiều người vẫn chưa hiểu rõ được giá trị của tính dục mà Thiên Chúa đã trao tặng cho con người. Đã có rất nhiều hiểu lầm, hiểu chưa rõ về tính dục cho nên đã có những lạm dụng và xem người khác như là dụng cụ để thoả mãn dục vọng của mình hơn là để yêu thương. Vì tính dục không được tôn trọng, không được đặt đúng vào vị trí của nó nên đã dẫn đến tình trạng ly thân, ly dị, ngoại tình đang gia tăng trong xã hội hiện nay. Từ bối cảnh hiện đó, người viết muốn trình bày đôi nét về tính dục trong đời sống hôn nhân để có cái nhìn tích cực hơn về tính dục. Dẫu biết rằng đề tài tính dục trong hôn nhân không phải là đề tài nhỏ, cho nên trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ trình bày khác quát về tính dục trong hôn nhân theo khía cạnh bản năng, mục đích và khiết tịnh của tính dục.
1. Bản năng của tính dục
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng tính dục là một bản năng, là những xung động đã có từ thời thơ ấu, và bản chất đó là ham muốn tìm kiếm những cảm giác dễ chịu. Và những hành vi tìm kiếm cảm giác dễ chịu của trẻ nhỏ trên bản thân mình đều bắt nguồn từ tính dục nhưng chưa phải là hành vi tính dục, vì nó chưa hướng vào đối tượng là người khác giới[1]. Tuy nhiên, bản năng tính dục không chỉ là tìm kiếm khoái cảm trên toàn bộ bản thân mình mà bản năng tính dục còn hướng đến người khác giới và làm cho mình trở thành người đối ngẫu với người khác giới. Trong hôn nhân, mỗi người chúng ta có thể nhận ra được bản năng của tính dục chi có ý nghĩa trọn vẹn khi nó được thể hiện trong tương quan với người khác, và ngược lại, nếu quy về mình thì sẽ là bất toàn và chưa trưởng thành.
Tiếp theo, chúng ta còn thấy bản năng tính dục của con người luôn thúc đẩy con người bảo tồn và duy trì sự sống của mình. Và khi tạo dựng, Thiên Chúa cũng tạo cho con người những khoái cảm để con người thoả mãn các bản năng và đưa bản năng đi vào thực tế của cuộc sống. Nói rõ hơn là Thiên Chúa đã tạo ra những khoái cảm để con người sử dụng chúng để bảo tồn và truyền lại sự sống. Tuy nhiên, con người không được lạm dụng những khoái cảm mà Thiên Chúa ban như là cùng đích, mà luôn phải đặt những khoái cảm đó tùy thuộc vào các mục tiêu mà nó quy định, nghĩa là tính dục không được phép làm phương tiện để thỏa mãn bản năng một cách riêng tư, nhưng nó phải vượt lên trên chính con người mình[2].
2. Mục đích của tính dục
Trong Giáo hội công giáo có những thời xem hôn nhân là việc cực chẳng đã dành cho những người không thể tới con đường cao vời của trinh khiết, và trong hôn nhân chỉ có việc sinh con và tránh nhơ nhớp[3]. Không chỉ vậy, tính dục trong thời kì này còn bị cách ly với tình yêu và bị đồng lõa với tội lỗi[4]. Nhưng với những khám phá của các ngành khoa học nhân văn đã có cái nhìn thay đổi về đời sống hôn nhân - đời sống hôn nhân không chỉ là có mỗi việc sinh sản mà còn nhiều thứ tương quan khác nữa. Và trong mục này, người viết chỉ trình bày theo khía cạnh sinh sản và sự thân mật.
a. Sinh sản
Trong bối cảnh văn hoá Á đông, chúng ta thấy đời sống hôn nhân mà không có khả năng sinh sản con cái thì đó là một điều tủi hổ cho gia đình và dòng họ, hay nói một cách bình dân là bị Chúa phạt. Còn theo Kitô giáo thì khi nói đến hôn nhân cũng không thể không nói đến sinh sản con cái vì nó chính là mục tiêu thứ nhất của tính dục trong hôn nhân. Và việc sinh sản con cái có thể nói là mục tiêu tối hậu và bẩm sinh của các khả năng tính dục[5]. Tất cả các cơ cấu và xu hướng của tính dục đều nhắm đến việc sinh sản con cái vì, ý hướng của Thiên Chúa khi ban cho con người những khả năng tính dục là muốn kéo dài sự sống của nhân loại. Nếu con người không có nhu cầu duy trì nòi giống thì cũng không cảm thấy thúc bách phải kết hợp tính dục và một số cơ quan của con người cũng không tồn tại.
Nhìn vào thế giới tự nhiên, mỗi người đều có thể nhận thấy mục đích chính của tính dục là sinh sản, và Giáo hội cũng dựa theo lẽ tự nhiên để nói lên lập trường của mình: “Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi quy hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn thành hôn nhân”[6], và “con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân”[7]. Như vậy, giáo huấn của Giáo hội đã cho chúng ta thấy được mục đích chính của tính dục là sinh sản và cũng là phần thưởng tối hậu của tình yêu vợ chồng. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể hiểu sinh sản là mục đích của tính dục cho nên cứ sinh sản thoải mái, nhưng sinh sản ở đây được hiểu là sinh sản có trách nhiệm.
b. Sự thân mật
Thời buổi hiện nay, theo suy nghĩ của người viết chắc là không ai nghĩ tính dục chỉ có mục đích là sinh con đẻ cái, mà tính dục trong hôn nhân còn là sự thân mật giữa hai người. Bởi vì tình yêu hai người trao hiến cho nhau không phải là tình yêu nhất thời, nhưng là tình yêu bền vững vì hai người đều muốn thuộc trọn về nhau, cho nên hai người cần phải sát cánh bên nhau mãi mãi. Sự sát cánh đó chính là sự thân mật của vợ chồng và nó cũng là mục đích thứ hai của tính dục.
Sự thân mật của vợ chồng là một trong những hành vi thích hợp để biểu lộ tình yêu và sự quý trọng mà hai vợ chồng dành cho nhau, cũng như làm cho sự hiệp nhất giữa hai người sâu sắc hơn: “Sự âu yếm trên được biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua những tác động riêng của hôn nhân. Bởi vậy, những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng. được thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự trao hiến hỗ tương, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn”[8].
Trong đời sống hôn nhân gia đình, sự thân mật đã ràng buộc hai người lại với nhau và khi hai vợ chồng càng tham gia nhiều vào sự thân mật thì khả năng ràng buộc càng lớn. Sự ràng buộc này là những phương thế đem lại những điều kiện tốt nhất trong tinh thần yêu thương thực sự chứ không phải là tìm thỏa mãn tính dục ích kỷ, và sự ràng buộc này còn đem lại cho người bạn đời của mình sự an toàn và che chở. Chỉ có sự kết hợp như thế, hai người mới đáp ứng được nhu cầu tâm lý sâu xa của tình yêu tính dục[9].
Ngoài ra, chúng ta còn thấy sự thân mật của đời sống hôn nhân còn làm cho đời sống vợ chồng được hòa điệu và đời sống của họ sẽ trở nên nguồn mạch của niềm vui và bình an. Việc kết hợp tâm hồn và thể xác giữa hai người trong cùng một nhịp là một trong những giây phút tuyệt vời nhất của đời sống hôn nhân và cũng là những biểu lộ sâu xa tuyệt vời nhất của tình yêu[10].
3. Khiết tịnh tính dục
Nói đến khiết tịnh, người ta thường nghĩ ngay đến sự tiêu cực, sự ức chế mà lẽ ra con người phải gồng mình gánh chịu. Và trong suy nghĩ bình dân, khiết tịnh thường được người ta đồng hóa hạn hẹp với việc kiêng kị và tiết dục những khoái cảm tính dục bất hợp pháp. Với cái nhìn như vậy, người ta sẽ không còn cảm thấy hứng thú và hấp dẫn nữa mà trở thành một gánh nặng mà mình phải mang vác trong suốt cả đời người. Vậy thì khiết tịnh phải hiểu như thế nào?
Chúng ta cần phải xác định trước tiên rằng khiết tịnh không phải là khước từ hay lẩn tránh tính dục mà là điều hòa tính dục của một con người có sức khai phóng cũng như nó tìm cách đảm nhận lấy tính dục, cho dù đang sống trong bậc nào và đã đạt được sự quân bình nhân bản đến mức nào rồi[11]. Khiết tịnh còn là một nhân đức giúp chúng ta giữ vững trật tự đời sống tính dục[12]. Nhân đức khiết tịnh này luôn mời gọi mọi người thực hiện trong cuộc sống để có thể đạt được một đời sống nội tâm phong phú và một tình yêu trưởng thành[13]. Việc thực hành khiết tịnh còn giúp cho chúng ta không tôn thờ tính dục thái quá mà cũng không coi rẻ tính dục, nhưng bản chất của khiết tịnh đó là tôn trọng mầu nhiệm giới tính một cách sâu xa[14].
Cũng cần nhắc lại rằng, khiết tịnh không làm cho con người bị kìm hãm, bị ức chế, nhưng làm cho con người được tự do và giải thoát con người ra khỏi khuynh hướng dùng người khác để thoả mãn những ích kỉ, nó còn giúp cho con người biết yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương con người. Không những vậy, khiết tịnh còn còn làm cho con người biết khám phá và chu toàn ý nghĩa của sự sống và sự hiện hữu[15].
Ngoài ra, việc con người sử dụng tính dục như một chức năng sinh lý thuần túy cũng phải bị coi là ô uế, là không khiết tịnh vì làm như thế là cô lập tính dục khỏi bối cảnh chung là tình yêu giữa con người với nhau. Trong hôn nhân, việc thỏa mãn tính dục đi đôi với sự tôn trọng ngôi vị con người, nếu không sẽ là một sự hạ thấp con người xuống hàng thú vật dù có làm điều đó trong khuân khổ của đời sống hôn nhân[16].
Cuối cùng, với những gì vừa trình bày ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng lý tưởng khiết tịnh của Kitô giáo là một lý tưởng khá cao cho con người. Với lý tưởng này, con người không thể chiếm lấy chỉ trong một lần, nhưng nó là một đích điểm mà con người không ngừng hướng tới và kiên trì theo đuổi; một khi chúng ta khao khát và chân thành theo đuổi, nó sẽ giúp cho chúng ta luôn biết cởi mở để đón nhận những giá trị của khiết tịnh[17].
Nói tóm lại, Tính dục trong đời sống hôn nhân không chỉ thu hẹp vào việc thỏa mãn các bản năng, nhưng tính dục còn trở nên một dấu chỉ của tình yêu, của sự rộng mở đối với người khác cũng như sẵn sàng thoát ra khỏi chính mình để trao ban chính mình cho người khác một cách trọn vẹn. Tính dục của con người còn là hành vị đẹp nhất mà một người nam và một người nữ trao hiến cho nhau; tính dục còn là một hành vi nhân bản, thể lý và rõ ràng mà hai người có thể kết hợp với nhau một cách mật thiết nhất[18]. Và hành động tính dục trong đời sống hôn nhân tự nó còn mang tính chất quyết định của cả con người, nghĩa là đòi hỏi con người phải hiện diện một cách sâu xa và cả hai người cùng tham dự vào.
Trong kế hoặch của Thiên Chúa, tính dục là con đường dẫn đến tình yêu. Nhưng nếu tính dục được sử dụng để làm tổn thương hay lạm dụng người khác thì nó không còn là một lối diễn tả tình yêu trao hiến hay mở đường cho sự sống mới nữa; nói cách khác là tính dục đã mất đi một năng lực tốt lành Thiên Chúa trao ban từ nguyên thủy.
Thiện Chiến
[1] Xc. Đào Xuân Dũng, Tình dục học đại cương, tr.76.
[2] Xc. Karl H. Peschke, svd, Thần học luân lý chuyên biệt, tập III, tr,24.
[3] Xc. Erich Fuchs , Một luân lý kitô giáo về tính dục, Bern ard và Francois Refoulé biên tập, Đường vào thần học, tập 4B: Thần học luân lý, tr. 100 – 101.
[4] Sđd.
[5] Xc. Karl H. Peschke, svd, Thần học luân lý chuyên biệt tập III, tr,24
[6] Gaudium et Spes, số 48.
[7] Sđd., số 50.
[8] Sđd, số 49.
[9] Xc. Karl H. Peschke, svd, Thần học luân lý chuyên biệt tập III, tr.27.
[10] Xc. Nguyễn Văn Dụ, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với tình yêu (Toà tổng Giám mục TP.HCM, 2004), tr. 65.
[11] Xc. Xavier Thévenot, Để xây dựng một nền luân lý cho thế giới mới. truy cập ngày 04/03/09; http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=288&ict=876.
[12] Xc. Karl H. Peschke, svd, Thần học luân lý chuyên biệt tập III, tr.46.
[13] Xc. Nguyễn Văn Dụ, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với tình yêu (Toà tổng Giám mục TP.HCM, 2004), tr. 67.
[14] Xc. Karl H. Peschke, svd, Thần học luân lý chuyên biệt tập III, tr.46-47.
[15] Xc. Christopher West, Tin mừng về tính dục & hôn nhân - giải đáp những câu hỏi thẳng thắn về giáo huấn Giáo hội, (Nhóm Tâm Biển , dịch) tr.89.
[16] Sđd.
[17] Xc. Karl H. Peschke, svd, Thần học luân lý chuyên biệt tập III, tr.48.
[18] Sđd., tr.61-62.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét