“Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14)
Trong bài giáo lý thứ nhất của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô, Ngài viết: “Thánh Phaolô Tông Đồ, một dung mạo xuất sắc và hầu như không thể bắt chước được, nhưng hào hứng, ở trước mặt chúng ta như một gương sáng cao cả về việc hoàn toàn hiến thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Hội thánh, cũng như cởi mở với nhân loại và các nền văn hoá. Cho nên thật công bằng để cho chúng ta dành cho Ngài một chỗ đặc biệt, không những chỉ trong sự tôn kính của chúng ta, mà còn trong cố gắng hiểu biết những gì Ngài muốn nói với chúng ta, là những Kitô hữu ngày nay”.
Sau cuộc gặp gỡ đổi đời trên đường Đamas, thánh Phaolô đã không quản ngại những gian lao thử thách để đi đến tận cùng trái đất (Rôma) rao giảng Tin Mừng. Ngài đã bị cầm tù ở Rôma vào khoảng năm 61 và được ơn phúc tử đạo vì chứng nhân Tin Mừng. Mặc dù bị cầm tù, nhưng Tin Mừng của Chúa không bị trói buộc. Thánh Phaolô đã viết rất nhiều thư (7 thư chính thức được Giáo hội công nhận là do chính tay Phaolô viết: Rôma; 1Thêxalônica; Galata; 1,2 Côrintô; Philêmon; Philipphê và các thư khác do Ngài đọc cho đệ tử viết) để động viên an ủi, khích lệ, củng cố đức tin và đặc biệt là xây dựng “sợi chỉ đỏ hiệp nhất” trong cộng đoàn. Với một lòng biết ơn, Ngài đã không ngừng tạ ơn Thiên Chúa cho mình và cho các tín hữu là những đứa con Ngài đã “cưu mang” và “sinh ra” trong nước mắt và đau khổ. Thánh Phaolô cũng đã dâng lời tạ ơn, chúc tụng Thiên Chúa vì sự chọn lựa đại lượng của Ngài. Thiên Chúa đã chọn chúng ta để ban những ơn phúc chỉ có ở trời cao. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho chúng ta hưởng muôn vàn ân phúc của Thánh Thần” (Ep 1,3). Cũng vậy, trong mầu nhiệm Giáo hội, chính Thiên Chúa đã chọn chúng ta, đã tiền định chúng ta trở nên nghĩa tử của Ngài trong Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1,5). Ơn này Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không, chứ không do tài năng hay công trạng của chúng ta. Trong máu của Đức Giêsu Kitô, chúng ta được hoàn toàn giải phóng khỏi những ách thống trị của tội lỗi do ma quỉ gây ra. Qua bí tích Rửa tội mà Giáo hội ban tặng, chúng ta được hoàn toàn tái sinh thành con người mới để tháp nhập vào thân thể Đức Giêsu. Mà ý muốn của Đức Giêsu là gì nếu không phải là “thu hợp mọi loài dưới quyền thủ lãnh của Người” (x. Ep 1, 10).
Phần chúng ta, chúng ta là những kẻ đã bị giam cầm trong sự chết do tội lỗi. Nhưng chính Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã giải thoát chúng ta, qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta là công trình của Thiên Chúa, chúng ta đã được tạo dựng trong Ngài (x. Ep 2, 10). Nhưng mầu nhiệm cứu độ không chỉ được thực hiện một lần trong sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu cách đây 2000 năm. Mầu nhiệm ấy còn được tái diễn trên bàn thờ qua mọi thời đại. Ơn giải thoát vẫn đến với chúng ta qua từng giây phút. Ơn giải thoát ấy vẫn ngày ngày qui tụ chúng ta trong sự hiệp nhất của toà nhà chung là Giáo hội, để qua đó chúng ta trở thành những viên đá sống động trong ngôi nhà của Thiên Chúa. Mỗi viên đá ấy phải thực sự ăn khớp với nhau và ăn khớp với viên đá tảng. Nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn được dính kết với Đức Kitô như cành nho dính chặt với cây nho: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15, 5a). Trong công trình vĩ đại này, thánh Phaolô luôn ý thức mình phải có trách nhiệm là “người thợ” tài ba để xây dựng, bằng cách rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Đức Giêsu Kitô. Là con cái của Giáo hội, chúng ta, những Linh mục, Tu sĩ, luôn phải ý thức trách nhiệm truyền giáo của mình cùng với thánh Phaolô. “Miễn là Đức Kitô được rao giảng” (Pl 1, 18).
Thế nào là truyền giáo?
Dịp tết vừa rồi, trong thánh lễ tất niên, tôi nghe một vị Bề Trên nọ giảng lễ rằng: Đặc sủng của Dòng chúng ta là truyền giáo. Thế nhưng, có một số anh em Tu sĩ trong Dòng không chịu học hành, trau dồi kiến thức, khả năng truyền giáo của mình; suốt ngày cứ đi ăn nhậu và chạy “nhong nhong” ngoài đường. Thoạt nghe qua, thấy cũng có lý ra phết, nhưng suy nghĩ kỹ thì, theo thiển ý của tôi, lập luận trên quá chủ quan và có “vấn đề”.
Truyền giáo là: Mission (tiếng pháp); Missionary Work (tiếng anh), từ ngữ cổ dùng để chỉ công việc và các đoàn người được Giáo hội Công giáo cử đến các vùng xa xôi chưa biết đến đạo Chúa, dùng thuyết giảng và nhiều phương thức bổ trợ khác (kể cả chữa bệnh, ban phát hàng hoá, đoán định thiên văn và thời tiết, ngăn ngừa hoặc xoá bỏ các hiểm họa thiên tai thú dữ…) có khi lập thành từng đoàn lớn, ăn ở lâu dài, lập ra các “điểm truyền giáo”, rồi đến lập các xứ tân tòng (pays de mission) (Mai Thanh Hải, Từ Điển Tôn Giáo, Nxb. Từ Điển Bách Khoa, tr. 667).
Lịch sử dòng tu trong Giáo hội có hai trường phái là chiêm niệm và hoạt động. Trong thời đại hôm nay, ta thấy xuất hiện một hình thức tu trì mới đang nở rộ và rất “ăn khách” là các Tu Hội Tận Hiến hay Tu Hội Đời. Những thành phần này có thể nói là luôn có mặt trên từng cây số, luôn sẵn sàng “xăm mình” trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tình huống để truyền giáo (hoạt động tông đồ), mà họ vẫn tu ngon lành. Tôi trộm nghĩ, không biết có đúng không, là: nếu phải chạy “nhong nhong” ngoài đường để làm việc tông đồ hay nếu “phải ăn nhậu mục vụ” thì cũng tốt thôi. “miễn là Đức Kitô được rao giảng” (Pl 1, 18).
Nhìn vào các trang Tin Mừng ta thấy, để hoán cải Matthêu, Đức Giêsu đã phải đích thân đến bàn thu thuế và cùng “ăn nhậu” với bạn bè của ông, là những người “được coi” là tội lỗi (x. Mt 9, 9-13). Cũng vậy, để hoán cải Giakêu, Đức Giêsu đã đến trọ nhà ông và đồng bàn với ông (x. Lc 19, 1-10). Hay để hoán cải người đàn bà ngoại tình, Đức Giêsu đã “ngồi đối diện” vớ bà (x. Ga 8, 1-11). Cũng như để “lôi kéo” người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacop, Đức Giêsu đã phải “ngỏ lời” với bà ta (x. Ga 4, 1-30)… và chắc chắn Chúa Giêsu đã bị mang tai tiếng rất nhiều về vụ “ăn nhậu” cũng như sống “lang thang” đây đó trên vùng đất Palestina này (x. Mt 9, 11; x. Mc 19, 7).
Để giải toả cho cái nhìn trên, Đức Giêsu đã nói một câu rất nổi tiếng: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 32). Vâng, không ai hiểu tục lệ của người Do thái bằng Chúa Giêsu. Không ai biết luật lệ của người Do thái là không được dao du “ăn nhậu” với những người “được coi” là tội lỗi bằng Chúa Giêsu. Trong khi đó, dưới cái nhìn của người Do thái thời bấy giờ, Đức Giêsu là một người vĩ đại, một tiên tri… đã từng được học giáo lý ở đền thờ Giêrusalem, đã dạy dỗ dân chúng, đã làm phép lạ… thế mà ông này lại “không hiểu biết” luật lệ gì cả! Thế nhưng, với Chúa Giêsu, luật lệ không phải để giết chết, để đóng kín con người trong cái nhìn thiển cận. Đức Giêsu không phá bỏ lề luật. Tôi đến không ĐỂ…, nhưng LÀ… Người đang sống với cái LÀ của một con người; cái LÀ của một lương y; cái LÀ của một Vị Cứu Tinh. Sự hiện diện, đồng bàn của Đức Giêsu nơi những người tội lỗi (Repas avec les pécheurs chez Lévi) là một sự tự do; tự do của một vị thầy; của một người Cha nhân hậu chứ không phải là một sự trói buộc của những “Vị Tiến Sĩ …”. Vì thế, theo tôi, không thể khơi khơi hay thiếu một chút suy nghĩ mà “phán” nhưng “ý tưởng” thiếu sự thuyết phục như vị Bề Trên nọ. “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14, 17).
Giáo hội là Nước Trời. Chúa Giêsu đã nói: “Nước Ta không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Nhưng phải thế mà người môn đệ của Chúa bỏ qua những gì không thuộc về Nước Trời? Nước Chúa không thuộc về thế gian có phải là bắt buộc những người theo Chúa không đếm xỉa gì đến trần gian hay những gì của trần gian? Giáo hội (Nước Trời) buộc phải giam mình trong nhà thờ, nhà nguyện, nhà xứ, các trung tâm được gọi là Công giáo, trong bốn bức tường của Tu viện, trong phòng riêng có tivi, màn hình vi tính tinh thể lỏng nối mạng ADSL… mà không tha thiết gì đến nhân tình thế thái hay những gì đang xảy ra phức tạp xung quanh mình? Chuyện ai nấy lo, đổ lỗi cho người khác là… Ok! “tôi là giáo hội!”. Thái độ này là một sai lầm và rất nguy hiểm. Chính vì thế mà Đức Piô 12 đã lên án trong bài diễn văn đọc trước Hội Đồng Hồng Y ngày 20.02.1946: “Giáo hội không thể tự đóng kín bất động sau những bức tường kín của các thánh đường, và thoái thác khỏi sứ mệnh Thiên Chúa an bài, đã giao phó là đào luyện con người toàn diện và bởi đó luôn mãi góp phần vào việc đặt một nền móng vững chắc cho xã hội. Sứ mệnh đó rất thiết yếu cho Giáo hội”.
Não trạng khép kín, hưởng thụ… mà Đức Piô 12 đã lên án trên cũng chính là não trạng của Phêrô thời chập chững bước theo học làm môn đệ Chúa Giêsu. Sau khi chứng kiến cuộc biến hình trên núi, Phêrô đã choáng ngợp và ảo tưởng về sự nghiệp của mình. Trên núi, trong vòng hào quang sáng chói, Phêrô đã nói: “Thưa Thầy, chúng con được ở đây thật là hay”, ông muốn dựng lên ba lều: một cho Chúa Giêsu, một cho Môsê và một cho Êlia để mọi người cùng ở lại đó. Trên đỉnh núi này, gần gũi với Thiên Chúa hơn, cuộc sống tốt đẹp hơn nhiều. Thế thì còn xuống núi làm gì nữa? Nhưng cuộc đời đâu phải thế, chúng ta phải từ trên núi đi xuống. Có người bảo trong tôn giáo phải có yên tĩnh. Nhưng không nên để có cô độc. Tĩnh mịch cần thiết vì người ta phải tiếp xúc với Chúa, nhưng nếu một người trong lúc đi tìm yên tĩnh cần thiết mà tránh xa đồng loại, bịt tai trước lời kêu nài giúp đỡ, đóng chặt lòng trước tiếng kêu khóc thì không còn là đạo giáo nữa. Tĩnh mịch không thể đẩy chúng ta đến chỗ ẩn dật, tránh né, thủ thân. Nó nhằm giúp chúng ta có nhiều năng lực để đương đầu và đối phó với những đòi hỏi của đời sống hằng ngày chứ không thể là phương thế để giúp ta sống an nhàn thư thái tự tại (x. William Barclay, Tin Mừng Theo Thánh Marcô, Nxb. Tôn Giáo, Tr. 200).
Maurice Zundel đã từng nói: “Chỉ kẻ biết tôn trọng con người mới làm chứng được Cho Chúa”. Qua công trình phát triển con người của thánh Phaolô và cùng với huấn quyền của Đức Thánh Cha Piô 12, ta thấy Giáo hội không chỉ quan tâm đến đời sau, mà bỏ qua cuộc sống tại thế của con người. Trái lại, Giáo hội từ thời các Tông Đồ, đặc biệt là thánh Phaolô và trải qua dòng lịch sử đến nay, luôn ý thức vai trò trách nhiệm của mình là đào luyện con người toàn diện dưới mọi hình thức, bằng mọi phương thế, đặc biệt là thực thi sứ điệp “Ra khơi” của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Cùng với Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, chúng ta cùng khẩn nài thánh Phaolô giúp chúng ta thực thi đúng sứ mệnh mà Chúa trao gửi cho những ai muốn nên nghĩa thiết với Ngài.
Lạy Thánh Phaolô Tông Đồ đầy nhiệt tâm, vì tình yêu Chúa Kitô đã đổ máu hy sinh, xin chuyển cầu cho chúng con một niềm tin sâu xa, một niềm hy vọng bền vững, một lòng mến Chúa nồng nàn, để chúng con có thể cùng nói với Ngài: Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi.
Xin giúp chúng con trở nên tông đồ phục vụ Giáo hội, với một lương tâm trong sáng, chứng nhân của Chân – Thiện – Mỹ giữa thời đại hôm nay.
Cùng với Ngài, chúng con tung hô Thiên Chúa là Cha, trong Đức Kitô nhờ Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen!
Tất Bật
0 nhận xét:
Đăng nhận xét