“Bĩ cực Thái lai”, câu này cũng như các câu tương tự: “Hết mưa trời lại nắng”, “Hết đêm trời lại sáng”…đều là những câu dân gian thường dùng để tự động viên hoặc động viên nhau để ráng mà “chịu khó cho nên”! Sách Huấn Ca (1, 23) cũng có một câu gần giống như thế:
“ Ai kiên trì chịu đựng một thời gian, thì cuối cùng niềm vui sẽ bừng lên cho người ấy”.
Qua một số những câu trích dẫn trên đây, ngoài ý nghĩa của một sự động viên trước những thử thách ta gặp trong cuộc sống, có lẽ ta cũng nên nhấn mạnh hơn đến giá trị của chính những cơn thử thách vì “lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đây có thể là đề tài suy tư thích hợp cho mùa Phụng vụ đang diễn tiến: từ mùa Thương khó qua mùa Phục sinh.
“ Vì bản thân Người (Đức Giêsu) đã trải qua thử thách và đau khổ” (Dt 2,18), vì tội lỗi nhân loại và cũng để chứng minh tình yêu Thiên Chúa với con người. Câu xác quyết trên đây của thánh Phaolô đã giúp chúng ta có một cái nhìn tích cực hơn và sáng suốt hơn về những gian khổ chúng ta thường gặp trong đời sống.Vì Chúa Giêsu là một con người như tất cả mọi người đã sống trên trần gian (“Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện”- Dt 2,17), nên tốt nhất là chúng ta hãy lấy chính Người ra làm mẫu mực, xem Người đã phản ứng ra sao trước những thử thách, Người đã vận dụng thế nào đức tin và lòng mến đối với Cha Người trong những tình huống khó khăn.
Có thể nói là ngay từ lúc mới mở mắt chào đời Đức Giêsu đã gặp thử thách với chính hoàn cảnh “vô gia cư” của Thánh Gia ở Bêlem và trên đường trốn chạy sang Ai Cập, đồng hoá với hạng người khốn cùng, bị xã hội ruồng bỏ, loại trừ. Khi đó Người hoàn toàn phó thác trong tay cha mẹ quí yêu. Lúc 12 tuổi, tại đền thờ Giêrusalem, chắc chắn với trái tim nhạy cảm của một người “con ngoan”, Người đã rất khổ tâm khi, vì “bổn phận ở nhà của Cha” (Lc 2, 49) mà phải làm cho cha mẹ sầu lo tìm kiếm, bù lại, “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2, 51). Đó là trong giai đoạn tuổi thơ của Đức Giêsu. Khi lớn lên, vừa chuẩn bị bước vào đời sống công khai, Người lại “được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4, 1), nhưng Người đã dùng chính Lời Chúa mà đáp trả, để sau cùng quỷ thất bại ê chề đành phải bỏ Người mà đi (x. Mt 4, 1-11; Mc 1, 12-13 và Lc 4, 1-13). Trên suốt các nẻo đường đi rao giảng Tin Mừng, Người đã gặp bao nhiêu chống đối, hận thù từ những người có quyền thế trong dân Do Thái, bị cả những người đồng hương phản đối, toan xô xuống vực sâu cho khuất mắt (x. Lc 4, 22-30). Nhưng khổ tâm nhất là khi chính các “Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí” (Mc 3, 21).
Vào cuối đời, tất cả mọi khổ đau thử thách đều như cấu kết với nhau lần cuối để quật ngã Đức Giêsu! Mọi chuyện lại xuất phát từ một trong 12 “đệ tử ruột” của mình, Giuđa Iscariot, đã nhẫn tâm bán thầy! Trong vườn cây dầu, quá run sợ trước giờ tử hình cận kề, Đức Giêsu đã mướt mồ hôi máu, than van với Chúa Cha: "Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con”, liền sau đó, lấy lại được bình tĩnh, Người thưa tiếp: “Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14, 36). Rồi trên đường lên Núi Sọ, không thấy bóng dáng các tông đồ thân yêu đâu cả, trước đó lại còn bị tông đồ trưởng Phêrô chối bỏ! Đau đớn nhất là khi nhìn thấy Mẹ thân yêu thất thểu bước theo trên đường khổ giá với tâm lòng tan nát! Tất cả như sụp đổ, một nỗi cô đơn khủng khiếp xâm chiếm tâm hồn Đức Giêsu đang hấp hối trên thập giá, đến nỗi Người phải ngước nhìn trời thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34). Sau cùng, Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở (Mc 15, 37). Vậy là sau những thử lửa của cuộc khổ nạn khủng khiếp mà Người đã đương đầu trọn vẹn, Chúa Giêsu đã làm cho “quân dữ” phải công nhận: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”. Tức thật sự đây là Vàng ròng nguyên chất (“lửa thử vàng”). Đồng thời vượt được những gian khổ vừa qua để chu toàn nhiệm vụ Chúa Cha giao cho, Đức Giêsu đã minh chứng trình độ tuyệt đối của các nhân đức của Người (“Gian nan thử đức”) mà tất cả đều được đặt trên nền tảng đức Vâng Phục: “Người lại còn hạ mình,vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8). Chính Người cũng đã khẳng định là: “chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12, 27), tức là cả cuộc sống trần gian của Đức Kitô đều hướng về giờ hy sinh cuối cùng trên thập giá để vâng theo ý Chúa Cha.
Vậy sau khi đã chu toàn cách hoàn hảo nhiệm vụ Chúa Cha giao phó, bây giờ đã đến lúc Người được Chúa Cha tôn vinh, khởi đầu từ sự Phục sinh của Người. Như vậy là bằng sự tuyệt đối vâng lời Chúa Cha, qua 33 năm tại thế và kết thúc bằng cái chết ghê gớm trên thập giá, bây giờ Người được lên trời ngự bên hữu Chúa Cha: “Còn Đức Ki-tô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10, 12). Rõ ràng là “hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai”.
Còn đối với chúng ta, những người còn đang sống giữa “bể khổ trần gian”, mỗi khi gặp khó, gặp khổ, chúng ta đã phản ứng như thế nào? Dĩ nhiên là ta phải cố gắng đừng để cho chính mình lại là nguyên do của những sự đau khổ cho mình hay cho người, vì có thể chúng ta sẽ lỗi bác ái, lỗi công bằng. Nhưng chúng ta không thể tránh khỏi đương đầu với những đau khổ khách quan do sự yếu đuối của con người, do sự hạn chế của loài thụ tạo và cũng có thể do người khác vô tình hay cố ý gây nên như một triết gia đã nói: “Tha nhân là địa ngục”! Trong mọi trường hợp, ta hãy bình tĩnh, sáng suốt và nhất là tin yêu phó thác mà đối phó, đồng thời xem đó như những cơ hội để cho “lửa thử vàng, gian nan thừ đức”. Chúa Giêsu đã đến vinh quang Phục sinh bằng con đường thương khó thì nhất định khi trung thành theo Chúa, vượt mọi thử thách của cuộc đời trần thế, chúng ta cũng sẽ được chia sẻ niềm vui Phục sinh với Người vì “một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” ( Rm 8, 17).
Chú Ba
0 nhận xét:
Đăng nhận xét