Karl Jaspers
Triết học hiện đại, từ Kierkegaard đến Jaspers, đặt trọng tâm suy tư về con người xét như là một nhân vị có định mệnh riêng biệt và sinh hoạt trong những hoàn cảnh đặc biệt. Triết học ngày nay không chú tâm giải nghĩa con người nữa, không cố gắng phân tích con người, nhưng chỉ cố gắng giúp con người sống cuộc đời mình cho có ý nghĩa. Nhìn chung ta thấy, triết học gần như bỏ hẳn cái mộng xây dựng một triết học dựa trên khoa học thực nghiệm; đồng thời ta cũng thấy triết học hiện đại dành một vị trí khá quan trọng cho những vấn đề xưa kia bị coi là những vấn đề của tôn giáo như: thân phận con người, hữu hạn tính của con người, ý nghĩa của tội, ý nghĩa của sự chết.
Triết học hiện đại được gọi chung bằng danh từ triết học hiện sinh vì nó chú trọng đặc biệt đến ý nghĩa cuộc đời của con người. Triết học hiện sinh giúp con người sống và chết một cách xứng đáng với định mệnh của mình. Nói đến hiện sinh ta phải phân biệt hai luồng tư tưởng khác nhau. Chủ thuyết hiện sinh của Heidegaard và hiện sinh chủ nghĩa của J.p.Sartre; và triết học hiện sinh Kitô giáo của Karl Jaspers và Gabriel Marcel. Trở lại hai luồng tư tưởng triết học mệnh danh là hiện sinh, chúng ta thấy chỉ có triết học của Jaspers và Marcel xứng danh là hiện sinh. Còn như triết học của Heidegaard thiếu hẳn hai yếu tố của hiện sinh, tức là thông cảm với tha nhân và tương quan với Thượng Đế.
Vậy còn lại luồng tư tưởng hiện sinh chính danh được đại diện bởi Jaspers và Marcel. Đặc biệt của ngành hiện sinh này là nhấn mạnh về tương quan nhân vị và về vai trò tối quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời của mỗi con người.
Với cái nhìn tổng quát trên, người viết xin giới thiệu bài tổng hợp với chủ đề Karl Jaspers, con người và triết lý.
I. TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM
1. Tiểu sử
Karl Jaspers sinh ngày 23 tháng 2 năm 1883 tại Oldenbourg, nước Đức. Ông đã theo học luật khoa tại Heidelberg và Munchen từ 1901 – 1902. Rồi ông lại theo y khoa tại Berlin , Gottingen và Heidelberg từ 1902 – 1907. Ở đây ông trình luận án Tiến sĩ với đề tài: Heimweh und Verbrechen (Nostalgie et Criminalité) vào năm 1909. Sau đó ông đã được đề cử làm Phụ Khảo Y Khoa, ngành Tâm trị học ở Heidelberg . Năm 1913, ông được thăng chức Giảng nghiệm viên về môn Tâm lý học. Sau cùng chính con đường Y học và Tâm lý học đã dần dà dẫn ông vào khám phá những u uẩn trong cuộc sống của con người, nên năm 1916, ông đã được mời làm Giáo sư ngoại lệ, rồi Giáo sư thực thụ về triết học tại Heidelberg năm 1921.
Nhưng vào năm 1937, vì lý do chính trị, ông đã bị phong trào Đức Quốc Xã huyền chức. Trong thời gian ấy ông đã không được phép xuất bản gì cả. Mãi tới năm 1945 ông mới được tại chức và năm 1946 ông được tặng chức “Kỳ lão danh dự” ở đại học Heidelberg. Năm 1958, ông còn được giải thưởng hoà bình của Đức ở Francford. Từ năm 1948, ông nhận lời mời của đại học Bales (Thụy Sĩ) và đến giảng dạy tại đó cho đến khi qua đời năm 1969.
2. Tác phẩm
Tác phẩm của Jaspers gồm có:
- “Nỗi nhớ và tính chất tội ác”, 1909.
- “Tâm bệnh học”, 1911.
- “Tâm lý học về những vũ trụ quan”, 1919.
- Philosophie, 1932.
- Những diễn văn đọc tại đại học Groningen , 1935.
- Nietzsche und das Christentum.
- Philosophische logik, Quyển I, năm 1947.
- “ Những đại triết gia”, bộ sách về lịch sử triết học.
II. TƯ TƯỞNG
A. Những Khám Phá Căn Bản
Với nghề y, Jaspers đi vào triết học bằng nẻo đường Tâm Trị Học; và trước tiên ông khám phá ra một điều khác với điều y học thường nói, đó là: bệnh hoạn là cái gì của kẻ làm người. Bệnh hoạn nói lên nhân tính của con người, tức của toàn bộ con người, chứ không chỉ giới hạn bởi tâm lý hay vật lý thể mà thôi. Tâm lý con người không phải là một sự vật có thể khách quan hóa. Con người không thể giải thích tâm lý bằng khoa học thực nghiệm hay bằng phương pháp nội quan.
Từ đó, Jaspers đã nhìn con người theo phương pháp tâm lý đã lãnh hội. Phương pháp đặt trọng tâm trên trực giác để nhận ra những kích thước chiều sâu của tâm hồn, tức là ý thức. Ý thức, theo Jaspers là một sự xuất hiện trong một hình thức nào đó và là một cách thức biểu hiện bản thân. Nhưng ý thức đó không bao giờ biểu hiện cả. Ý thức là cái hội tụ, không thể hiểu biết được hoàn toàn. Jaspers cũng nhấn mạnh đến khía cạnh tương quan của ý thức: ý thức chỉ là ý thức khi hình thành trong mối liên hệ với đối tượng và với tha nhân.
Nền tảng sâu xa của ý thức, một cách nào đó, chính là cái vô thức nằm sâu trong con người. Từ đó, Jaspers tìm thấy những giải thích về vũ trụ quan và nhân sinh quan của những nền văn hoá khác nhau. Như thế, ý thức cũng tự biểu hiện với những hình thức, tập tục văn hoá, hoàn cảnh khác nhau, nhưng do một nguồn mạch tiềm tàng bí ẩn, nên kết tụ thành những quan điểm chung của mỗi người cùng sống trong một hoàn cảnh lịch sử, một không gian địa lý. Nhờ vậy, ông tìm thấy một sự đồng nhất giữa cuộc sống và tư tưởng. Mọi hoạt động của con người, nói chung là văn hoá đều là biểu lộ của hiện hữu, đều là thể hiện một con người hoàn toàn nhân tính trong lịch sử.
Sự vật vật lý, hữu hình được nhận thức chủ yếu bằng khoa học. Nhưng khoa học, theo nguyên tắc, phải hội đủ hai điều kiện: tính khách quan và tính toàn thể. Thế nhưng, thực sự, khoa học không phải khách quan hoàn toàn, mà là quyết định của mỗi nhà khoa học; nó mang tính chủ quan, phụ thuộc vào lợi ích nào đó của mỗi nhà khoa học. Do đó muốn đạt tới chân lý trọn vẹn, cần phải tìm đến toàn thể tính. Một hiện tượng bao giờ cũng tương quan mật thiết với toàn bộ; nếu không, nó chỉ là phỏng định mơ hồ. Thực sự, không thể có một khoa học nào có thể bao trùm tất cả mọi lãnh vực khác nhau về bản chất. Theo Jaspers, điều quan trọng không phải là kiến thức khoa học mà chính là kiến thức phê bình, tức là ý kiến về khoa học. Triết lý không bao giờ là khoa học cả, không bao giờ có một triết lý giải thích tất cả mọi sự một lần cho xong. Triết lý cần tới khoa học, nhưng triết lý đạt tới điều khoa học không thể đạt tới, đó là đạt tới chính mình; nó ảnh hưởng trên hoạt động nội tâm, giải tỏa trong những nguồn mạch khát khao của con người; những nguồn mạch này làm cho khoa học có ý nghĩa.
Như thế Jaspers đã tìm đến con người, tất cả những gì cao cả nhất và bi đát nhất của thân phận con người, nhất là một con người độc đáo, một bản vị riêng tư và khía cạnh chính yếu của sự hiện hữu. Jaspers cho rằng, phải đi từ chính hiện sinh. Chỉ có hiện sinh mới có thể là khởi điểm của suy tư triết học, nên ta phải tìm triết lý trong hiện sinh chứ không phải trong khoa học. Đặc biệt, con người hiện sinh trong Jaspers dẫn tới siêu việt; hiện sinh và siêu việt không thể tách rời nhau. Đó là giá trị triết lý của Karl Jaspers.
Từ những khám phá trên, Jaspers đã hình thành một triết lý thật phong phú. Ông được coi là nhà kiến trúc của triết học hiện sinh và là người đầu tiên đã dùng danh từ “ Triết Học Hiện Sinh”.
Nội dung
I. TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM
1. Tiểu sử
2. Tác phẩm
II. TƯ TƯỞNG
A. Những Khám Phá Căn Bản
B. Con Đường Hiện Sinh
1. Cảnh vực của khoa học
2. Cảnh vực hiện sinh
3. Cảnh vực của siêu việt
4. Thần học và một phương pháp tượng số
Những tài liệu tham khảo
- Samuel Enock Stumpf, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, NXB Lao Động, 2004.
- Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch Sử Triết Học Nhập Môn, Tập IV, thời Hiện Đại, 2004.
- Karl Jaspers, Triết Học Nhập Môn, bản dịch Lê Tôn Nghiêm, Bộ Giáo Dục và Thanh Niên, 1969.
- Những vấn đề lớn của Triết học: Con người – Vũ trụ - Thượng Đế.
- Đại Cương Triết Sử Tây Phương, thời Hiện Đại.
- Lm. Trần Đình Thụy, Dẫn Nhập Triết Học Cận - Hiện Đại (thời mới), phần tóm dành cho sinh viên.
- Phan Văn Chức, Những Trào Lưu Triết Học Hiện Sinh, Tủ sách La San.
- Lm. Gs Vũ Đức Thận, Đọc Kinh Thánh Với Đức KiTô, Tĩnh Tâm Lm & Ts giáo phận Long Xuyên, tháng 12/2005.
(Còn tiếp)
Tất Bật
0 nhận xét:
Đăng nhận xét