Pages

Subscribe:

Ads 468x60px

Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2012

Trở Về Nguồn

Để cung cấp thêm tư liệu cho những suy tư về căn tính và đoàn sủng của Dòng, Dựng Lều xin giới thiệu một số tài liệu liên quan đến lịch sử và các Đấng tổ phụ của Dòng. Những tài liệu này trích dịch từ những báo cáo thường niên của các vị thừa sai (MEP) ở Campuchia và từ Bản tin của Hội Thừa Sai Paris (MEP) vào những năm đầu thế kỉ 20, tức thời kì khai sinh của Dòng Thánh Gia
Tu huynh giảng viên giáo lí
ở Campuchia
[1]

Joseph Vullilez
(Tiếp theo kì trước)
Tuyển sinh
Mỗi năm có khoảng 15 em vào đệ tử viện Banam. Các Thầy đóng vai trò chính yếu đối với vấn đề ơn gọi. Chính từ các xứ đạo nơi các Thầy làm việc xuất phát phần lớn những ứng viên. Tôi cũng gởi các Thầy đặc trách tuyển sinh đi cổ võ ơn gọi, không chỉ nói về Hội dòng, mà kêu gọi tất cả những người trẻ, cả nam lẫn nữ, dấn thân vào những công việc phục vụ cao nhất, trong đời sống linh mục và tu sĩ.
Một điểm cần ghi nhận: Thực tế gần như không thể tìm được ơn gọi nơi những thiếu niên và những người trẻ. Trước đây còn có thể đề nghị những em trai 14-15 tuổi làm giáo lí viên, bây giờ chỉ có những chú 11-12 tuổi mới nhận lời. Ngay khi các em rời trường, vòng quay công việc và đời sống gia đình dường như đã đưa các em đi xa vĩnh viễn tất cả các ơn gọi cao quí trên. Tình trạng này thật đáng tiếc trên mọi quan điểm. Nếu những thỉnh sinh của chúng ta già dặn hơn, họ có thể lợi dụng tốt hơn việc học hành ở tập viện; và sẽ tiếp cận đời sống tông đồ với một sự chín mùi hơn.
Đôi khi tiểu chủng viện của địa phận cũng cung cấp ơn gọi cho dòng Thánh Gia. Nhưng với một số điều kiện nào đó. Trước đây người ta có xu hướng nghĩa rằng, bất cứ chủng sinh nào bị sa thải khỏi chủng viện cũng đều có thể làm giảng viên giáo lí. Không gì sai lầm bằng. Một đứa trẻ bị chuyển hướng khỏi đời sống linh mục vì thiếu đạo đức, lòng quảng đại, hoặc tính tình có vấn đề, thì cũng không thể có ơn gọi làm giảng viên giáo lí. Ngược lại, nếu một chủng sinh nào bị từ chối vào chủng viện chỉ vì lí do kém thông minh, nhưng không hoàn toàn bị “đóng nút”, thì con đường trở thành tu sĩ giảng viên giáo lí vẫn được mở cho đương sự, bởi vì nhà dòng có thể trao cho các thành viên những công tác rất khác nhau, kể cả các công việc tay chân.
Việc học hành
Điều này không có nghĩa là chúng ta bằng lòng với một trình độ học vấn tầm thường. Trước đây, những giảng viên giáo lí tương lai chỉ trải qua 3 năm huấn luyện ở Banam, bao gồm cả năm nhà tập. Hiện thời, họ phải làm 5 hoặc 6 năm đệ tử trước khi làm 2 năm nhà tập. Giai đoạn huấn luyện dài này đã được hình thành dần dần với sự tranh đấu trường kì. Bời vì, chưa nói đến những nhu cầu cấp thiết về giảng viên giáo lí của các họ đạo, có một định kiến cố hữu và rất phổ biến rằng: các Thầy không cần phải học nhiều. Đó có thể đúng đối với các Thầy trợ sĩ của dòng chiêm niệm Trappe. Nhưng làm thế nào một công tác tông đồ mà tôi đã trình bày ở trên lại có thể bỏ qua một sự đào tạo vững chắc? Nếu ta không muốn hài lòng với việc một giảng viên giáo lí chỉ biết dạy học thuộc lòng những gì được viết trong thủ bản, thì chúng ta phải cho họ một sự đào tạo về giáo thuyết, cũng như về nhân bản mà giáo thuyết đó đòi hỏi đử để tiếp thu và truyền lại. Hơn nữa – và lí do khẩn thiết này các linh mục thường quên – sự rèn luyện (học hành) là không thể thiếu để có sự quân bình nội tâm, thậm chí tôi có thể nói để có sự bền đỗ của các Thầy dấn thân trong đời sống hoạt động. Đó là một bài học kinh nghiệm. Mặt khác, chính các Thầy cũng thấy cần một sự chuẩn bị kĩ càng; họ luôn đề nghị được học hành đầy đủ; một số tự buộc mình phải làm việc thêm để hoàn thiện mình.
Về mặt thực hành, đệ tử viện được tổ chức thành 6 lớp của bậc tiểu học: cours enfantin, préparatoire, élémentaire, moyen I, moyen II và supérieur. Lớp enfantin dành cho các trẻ mới đến, chỉ mới biết đọc biết viết[2]. Năm thầy cùng với tôi đảm nhận việc giảng dạy này.
Việc học tiếng pháp chiếm chỗ quan trọng nhất trong chương trình học. Có thể tương đương với đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ nếu không muốn nói là bằng trung học (brevet) của Pháp vào cuối đệ tử viện[3]. Ngoài ra, một số Thầy còn có bằng B.E.P (Brevet d’Etude primaire) do Phái bộ văn hoá Pháp ở Phnompenh cấp. Phần lớn các Thầy chuẩn bị thi lấy bằng bằng cách theo học chương trình của tiểu chủng viện sau khi đã tuyên khấn; số khác phải làm việc cách riêng tại Banam, thì được giúp bởi các Thầy đã có bằng tù tài. Nếu điều kiện cho phép tốt hơn, chắc chắn sẽ có nhiều ứng viên hơn. Chính danh của những bằng cấp chính thức này rất hữu ích cho việc giảng dạy của họ, nhưng việc học tiếng pháp chủ yếu nhằm mục đích giúp các Thầy nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình cũng như sự hiểu biết giáo lí nhờ vào những sách vở bằng pháp văn. Và mục đích này thật sự đã đạt được.
Các người trẻ càng đáng khen hơn vì đệ tử viện không phải và cũng không thể là một trường áp dụng theo chương trình pháp. Học trò phải học tiếng việt, ngôn ngữ chính của của cộng đoàn công giáo địa phương, và nhất là tiếng Campuchia, ngôn ngữ quốc gia. Kể từ năm 1962, những lớp nhỏ phải học mỗi tuần không dưới 15 giờ tiếng Campuchia, còn từ các lớp lớn hơn (cours moyen) là 12 giờ. Mặt khác, đó là một sự tiến triển tuyệt đối cần thiết: ngoài các lớp học tiếng pháp, chúng tôi phải dạy tất cả bằng tiếng Campuchia. Những Thầy là những người đầu tiên xác tín điều đó. Tôi ngưỡng mộ sự làm việc của họ để làm quen với thứ ngôn ngữ rất khác với tiếng mẹ đẻ của họ.
Việc học pháp văn và khmer không dừng lại trong giai đoạn tập viện. Giảm thiểu còn 5 giờ một tuần trong năm giáo luật, năm tập hai lại bắt đầu tăng giờ học lên.

(còn tiếp)
Thông Phán chuyển ngữ


[1] Trích Documentation M.E.P, Juillet 1963
[2] Thực tế là những cộng đoàn Kitô giáo Việt nam ở Campuchia, chỉ được phép mở các “trường giáo lí” (écoles de catéchisme). Hàng năm chúng tôi không có tất cả các lớp: Năm học 1962-1963, chẳng hạn, 54 đệ tử được xếp vào 3 lớp : enfantin (21 học sinh), élémentaire (15 em) và moyen II (18 em).
[3] Chúng tôi theo sát giáo trình tuyệt vời Mauger, do Phái bộ văn hoá Pháp phổ biến.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
BACK TO TOP