Karl Jaspers
(tiếp theo và hết)
B. Con Đường Hiện Sinh
Hoạt động triết học chuyên nghiệp của Jaspers được đặt trong bối cảnh của sự khó xử của con người ở thế kỷ XX. Quan tâm chính của ông là vấn đề từ xưa về hiện hữu, phải được nghiên cứu từ quan điểm triết học về tồn tại. Chủ đề hiện hữu về sự tồn tại của cá nhân bị lu mờ bởi tác động của cách suy nghĩ khoa học đối với trí óc con người hiện đại. Thêm vào đó, thân phận con người đã trở nên tồi tệ với sự phát triển của kỹ thuật, sự xuất hiện của các phong trào quần chúng, và sự buông lỏng các ràng buộc của tôn giáo. Tự do chọn lựa một định mệnh làm thành bản ngã nhân sinh của con người đã rơi vào thất bại; nhưng sự thất bại này như là “Tượng số” hay là dấu chỉ tuyệt hảo sẽ là phương thế đạt tới Siêu Việt là Thiên Chúa, câu trả lời tối hậu cho mọi vấn đề triết học, nhờ vào chính niềm tin nơi triết học. Jaspers đưa ra ba cảnh vực và một phương pháp tương ứng.
1. Cảnh vực của khoa học
Đây là những phạm vi của những sự vật vô hồn, phạm vi của khoa học thực nghiệm. Cảnh vực này bao hàm tất cả những gì thường ngày ta bắt gặp, quan sát và tìm hiểu bằng thái độ tri thức đúng đắn và những khảo cứu khoa học. Đó là vũ trụ vạn vật và chính cả thành phần thể xác, sinh lý của con người nữa. Khoa học có thể dễ dàng xét nghiệm những hữu thể này và đưa ra những định luật, những công thức chặt chẽ. Nhưng Jaspers cho thấy hai sự thất bại trong quan điểm về vũ trụ trước đây: thất bại của vũ trụ quan và thất bại của khoa học thực nghiệm. Ông tin rằng không thể có một khoa học phổ quát về hiện hữu. Lý luận của ông là, cũng như mỗi khoa học hoạt động trong các giới hạn chặt chẽ về nội dung của nó, thì cũng thế, sự tập hợp của mỗi khoa học lại với nhau đòi hỏi sự thu hẹp nội dung của chúng. Sự thu hẹp của khoa học là bó buộc tự bản chất.
Từ Aristote cho đến Descartes, người ta thường tưởng tượng con người có thể xây dựng được một khoa vũ trụ học. Nhưng Kant đã cho thấy đó là một tham vọng quá trớn. Chẳng những con người không có trực giác trí năng để có thể hiểu thấu được những gì tự nội của thế giới, nhưng còn vì vũ trụ bao quanh và ở trong ta. Ta chỉ nhìn thấy một phần của vũ trụ thôi. Vì vậy ở đây Jaspers đã không chủ trương dùng lối khách quan của khoa học thực nghiệm để thám hiểm vũ trụ, mà phải dùng lối triết lý hay đúng hơn phải dùng lối triết lý Bao Dung Thể. Con người ta không phải là những con số, mà là những huyền nhiệm; đặc biệt, con người có khả năng phản tỉnh. Và đương nhiên, Jaspers đã khám phá ra một phương pháp mới cho việc tìm hiểu vũ trụ về con người.
2. Cảnh vực hiện sinh
Jaspers cho rằng nhiệm vụ triết học là nghiên cứu về Tồn tại, và nội dung của nó dựa trên kinh nghiệm nội tại trực tiếp và cá nhân của nhà tư tưởng hiện sinh. Ông nói: “Tồn tại là một cái gì không bao giờ có thể trở thành một sự vật thuần tuý; nó là nguồn từ đó sự suy nghĩ và hành động của tôi phát triển”.
Hiện sinh ở đây được hiểu như một cá nhân cụ thể trong nội tính hay chủ thể tính độc đáo của nó nghĩa là như một bản vị riêng tư, biệt lập với vạn sự thường nghiệm khác. Bản vị hữu thể riêng tư này là đối tượng đặc thù của suy tư con người mà ông gọi là “niềm tin triết học”. Chỉ với phương pháp phản tỉnh hiện tượng luận, ta mới đạt được bản ngã cá vị còn được gọi là huyền nhiệm và sống cách hiện sinh mà thôi. Với phương pháp phản tỉnh, Augustin đã đưa ra một triết lý tuyệt vời: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết con”. Biết Chúa là Đấng nhân lành và Chúa muốn con trở nên trọn lành. Biết con là kẻ bất toàn và quyết tâm đổi mới. Biết Chúa để ẩn sâu trong Chúa và nhìn về mình trong ánh sáng của Chúa với đôi mắt của Chúa. Triết học hiện sinh là một cách tư duy qua đó con người tìm cách trở thành chính mình. Nó là một cách suy tưởng không tự giới hạn vào việc biết các sự vật mà là làm sáng tỏ và hiện tại hóa sự vật hiện hữu của người tư duy. Chỉ có cảnh vực này mới đáng mang danh nghĩa một Hiện sinh.
Jaspers nói con người là hiện sinh có giới hạn, và giới hạn cuối cùng của mình là: đau khổ, tội lỗi, chết. Nhưng những giới hạn đó giúp con người suy nghĩa, tìm hiểu ý nghĩ những giới hạn đó, và gặp Thiên Chúa. Phải tìm hiểu Thiên Chúa trong tin tưởng và chiêm niệm. Tìm hiểu Thiên Chúa bằng quan niệm lý trí là để soi sáng cho lòng tin tưởng ở Ngài. Nhưng tin tưởng chưa phải là xem thấy vì Thiên Chúa vẫn còn xa xăm, u uẩn. Sống với Ngài không phải là bằng tri thức chắc chắn mà là sống như ta dám can đảm tin tưởng rằng: Thiên Chúa có. Một Thiên Chúa ta biết Ngài chỉ qua đường chiêm niệm. Chiêm niệm là nhìn về Chúa, về mình để biết Chúa, biết mình. Chiêm niệm là đỉnh cao trong đời sống tâm linh giúp ta luôn trực tiếp nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong tất cả, luôn nghe được tiếng nói của Ngài đang ngỏ lời trong tất cả và luôn sẵn sàng đáp trả mọi lời mời gọi của Ngài. Chiêm niệm sẽ giúp ta vươn tới những chiều kích thẳm sâu để nhận ra chẳng có gì là vô nghĩa, chẳng có chi là vô tình mà tất cả là những dấu chỉ, những “Tượng số” qua những ngôn từ mạc khải sự hiện diện và thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Cần phải vượt qua suy tư để chiêm niệm.
Hiện sinh chính là khởi điểm và là nguồn suối suy tư cho triết lý, vì triết lý thiết yếu là suy tư toàn thân phận con người, hiểu như là một hiện sinh hoàn toàn tự do. Và tự do này được phân tích như thể hiện trong mỗi hiện sinh cá biệt, độc đáo, duy nhất. Để vươn tới nhân vị tự do, ý thức về quyền tự do, tự chủ, ý thức trách nhiệm làm người, nắm trong tay ý nghĩa cuộc đời của mình, con người cần làm một bước nhảy. Hiện sinh bắt đầu khi con người ý thức sâu xa rằng mình là một chủ thể, nghĩa là chủ động để tự gây lấy nhân cách và bản lãnh cho mình.
Jaspers thường gọi hiện sinh là một hiện sinh khả thể. Hiện sinh khả thể là một hiện sinh bị xé, là hiện sinh hàm chứa đầy những nghịch lý và mâu thuẫn; vì một đàng nó luôn cảm thấy những khiếm khuyết của mình, bất mãn với cuộc đời và cũng bất mãn với chính mình; bị đụng đầu với những hoàn cảnh giới hạn không thể vượt qua như cái chết, đau khổ, tội lỗi… đàng khác nó vẫn ước mơ một cái gì bao la vô hạn, nó là “kẻ hành hương đi tìm tuyệt đối”.
Hiện sinh khả thể luôn có một sức sống mãnh liệt, một khát vọng sống vô cùng, luôn muốn hoàn thành chính mình để trở thành một hiện sinh tự do, để sống đích thực là mình. Đến đây ta thấy Jaspers đã đưa ra được vấn đề của một con người hiện sinh là: tự do tính. Theo ông, tự do nhưng không thể cô lập như với Kierkegaad, mà thiết yếu liên hệ với người khác và thông cảm được với họ. Vì họ cũng là những con người tự do, cá biệt, độc đáo và duy nhất, cũng sống trong những hoàn cảnh và sử tính như vậy. Cũng theo Jaspers, đây là vấn đề thông giao; một vấn đề không thể thiếu trong hiện sinh.
Tự do là đặc tính của hiện sinh, nên chỉ có thể chứng nghiệm và không thể giải thích. Từ chỗ quan niệm về tự do đến chỗ thấu hiểu tự do cũng cần có một bước nhảy. Đứng trước thực thể đầy những khả thể của hiện sinh, con người phải lựa chọn. Chọn lựa ở đây không phải là chọn lựa cái gì ở ngoài mình, nhưng là chọn lựa chính mình, chọn lựa để là mình. Khi con người tự do chọn lựa và tự do quyết định chính mình, thì con người hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì mình đã chọn. Trong trường hợp này, con người không thể không lo âu trước những quyết định đó. Lo âu, chính là sự choáng váng trước tự do chọn lựa. Lo âu là một trong những yếu tố của hiện sinh.
Đứng trước sự tự do chọn lựa như thế, con người không bao giờ dám chắc chắn và khẳng định rằng những nẻo đường mình chọn là hoàn toàn đúng; đồng thời cũng không thể không lựa chọn một con đường cho mình. Và như thế, muốn sống, muốn tồn tại, muốn thành công, con người phải dám liều. Liều vì tôi không thể suy luận ra cuộc đời của tôi, cũng không phải tôi chọn sự thiện và sự ác, nhưng tôi phải làm thành sự thiện và sự ác; liều vì tôi không thể tạo nên số phận của tôi, nhưng tôi vẫn phải bước đi trên số phận đó, liều vì tôi phải dấn thân trong sự tự do đòi hỏi phải có trách nhiệm của tôi. Vâng, tôi phải hành động, phải dấn thân, phải làm một bước nhảy mà không ai khác có thể chỉ cho tôi những bước nhảy đó. Jaspers tin có luật luân lý in trong lương tâm của mỗi người chúng ta, nhưng vấn đề quan trọng là chúng ta đã tự do sử dụng lề luật đó như thế nào, nếu không thì ta vẫn mãi mãi bị nô lệ bởi lề luật, và chính lề luật lại trở nên con dao cắt đứt sự tự do căn bản của ta.
Nhưng tôi không tự do chơi vơi giữa trời và đất, tự do của tôi luôn được thể hiện trong một hoàn cảnh, một lịch sử tính nào đó. Tự do chỉ có thực sự như một nụ hoa chớm nở trong một hoàn cảnh của lịch sử. Tôi là tôi trong một cảnh ngộ, một gia đình, một dân tộc. Tôi chỉ là tôi trong cuộc đấu tranh làm nên chính bản thân tôi. Như thế ngay khi tôi tự do lựa chọn, tôi đã có một lịch sử; dĩ vãng là thành phần của tôi và tương lai là cái tôi sẽ tạo nên. Tôi là tôi của một quá khứ và tôi sẽ là tôi của một tương lai. Tôi hiện hữu với tất cả sử tính của tôi, cho dù một sử tính đầy tội lỗi chăng nữa, đó là hiện sinh của tôi.
Hiện sinh là một độc đáo riêng biệt, nhưng không phải là cô độc. Hiện hữu của tôi phải là hiện hữu với, hiện hữu cùng, mà đồng thời tôi vẫn là tôi. Đây là một khó khăn của hiện sinh để có thể vươn lên là chính mình trong hoàn cảnh và trong lịch sử. Hiện sinh của tôi phải được đặt kề bên hiện sinh khác, cả hai cùng đồng hành, cùng tồn tại, cùng phát triển, cả hai cùng vươn tới một hiện sinh trung thực, tự do và độc đáo; cả hai đều là những hiện sinh không thể thay thế cho nhau và không để ai thay thế. Hiện sinh phải là một cái tôi ngõ lời với một cái tôi khác mà cả hai đều độc nhất và tuyệt đối. Như thế triết học hiện sinh phải là một triết học “Thông Giao”. Thông giao là một “Đấu Tranh Yêu Thương”, theo Jaspers. Sự đấu tranh cho thấy sự khác biệt của hiện sinh, tạo nên yếu tố thông giao đích thực. Nhưng tình yêu thương lại là yếu tố làm hai bên đạt tới điểm thông. Cả hai yếu tố thông và giao phải đồng nhau, phải bình đẳng với nhau và cùng song hành với nhau. Những mối tương giao dễ dàng, không đấu tranh thì thiếu tính hiện sinh, vì chưa vươn tới mức độ độc đáo, tự quyết. Thông giao quý và cao hơn hiện sinh. Hiện sinh đặt nền trên tự do và cô đơn. Thông giao lại đặt nền trên cuộc Đấu Tranh Yêu Thương của hai hiện sinh. Phải “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. P.Ricoer càng làm nổi bật lên khi: “Ái tình là hiệp nhất, cho nên chỉ có ái tình khi có hai. Ái tình làm ta hi vọng thể hiện được mối hiệp nhất, nhưng chúng ta chỉ thể hiện sự hiệp nhất khi nào chúng ta nhận thức tính chất thực tại là hai của chúng ta”. Chân lý của cuộc thông giao này là những chân lý riêng tư độc đáo.
3. Cảnh vực của siêu việt
Bản thân con người đã là siêu việt so với các loài khác. Nhưng còn một Siêu Việt Thể mà ta gọi là Thiên Chúa.
Đây là phần đặc sắc nhất của Jaspers và quan trọng nhất, vì hiện sinh không liên hệ đến Siêu Việt Thể thì không đáng gọi là hiện sinh đích thực. Triết học của Jaspers như một nỗ lực liên kết triết học và tôn giáo.
Con người được mô tả như một chuyển động đi từ sự hiểu biết các sự vật sang giai đoạn tiếp theo, ở đây, cá nhân nhận ra trong mình những nền tảng tồn tại, và sau cùng là giai đoạn thứ ba, là giai đoạn con người ý thức về mình, hướng tới các bản ngã của mình. Ở giai đoạn này, con người khám phá ra sự hữu hạn của mình, sự mỏng dòn của kiếp người hiện sinh trong cuộc hành trình từ lúc sinh ra đến lúc chết cho thấy đó chưa phải là mức độ tối thượng. Chỉ có một Đấng tối thượng mà con người chỉ có thể tìm được nhờ niềm tin tôn giáo mà thôi. Chính ngài mới là giải thích cuối cùng cho mọi sự. Đặc biệt triết lý của Jaspers là mở cho con người tới hai sự siêu việt, siêu việt chiều ngang là thông giao với tha nhân và siêu việt chiều dọc với Tuyệt Đối.
4. Thần học và một phương pháp tượng số
Triết học không thể im lặng về vấn đề tôn giáo. Theo ông, tôn giáo vừa cần thiết, vừa phải vượt qua những hình thức tôn giáo sùng bái. Jaspers phê bình tôn giáo vì đức tin tôn giáo thường là một an nghỉ và đức tin tôn giáo có thể sinh ra mê tín.
An nghĩ là vì các tín đồ dễ tự coi như mình đạt được chân lý tuyệt đối. Họ sống dựa vào luật, dựa vào vỏ ốc của Giáo Hội và luôn được bảo vệ bởi những “Tòa nhà” của Giáo Hội. Jaspers cảm thấy rất buồn chán mỗi khi tìm đến trao đổi với nhà lãnh đạo của Giáo Hội. Họ không thể trả lời cho ông những câu hỏi, những thắc mắc, những khát vọng cuộc sống và ông cảm thấy không thể đối thoại được với họ. Họ chỉ nói đi nói lại những công thức, những tín điều không ai có thể hiểu được và nhất là chỉ đưa ra những lời khuyên nhủ để an ủi và xoa dịu mà thôi. Họ thấy được bảo vệ một cách đáng sợ và họ cảm thấy vững tâm một cách thái quá với đức tin của họ. Kết cục là họ sống bảo thủ, ích kỷ và giáo điều.
Sự tự thủ như vậy dẫn đến hậu quả là ép buộc người khác phải theo mình, phải vâng nghe những giáo điều của mình. Ai chống lại đường hướng, ý muốn của mình thì sẽ bị khử trừ.
Tôn giáo không sinh ra mê tín, nhưng vì bản tính con người là lười biếng nên mê tính sinh sôi. Người mê tín luôn lấy vài hình thức dễ làm, dễ thực hiện để thay thế cho cuộc sống của mình. Thay vì họ sống đức tin bằng hành động thì họ chỉ nói, chỉ lẩm nhẩm vài kinh kệ, rước sách, nhang khói, dâng cúng lễ vật… Nạn hối lộ buôn quan bán thánh đã xảy ra.
Để nói về Thiên Chúa, trước hết có thần học tiêu cực. Thần học tiêu cực vì không giải đáp được những điều vượt quá sức hiểu của con người, ví dụ mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, tính nhất thể trong các ngôi vị… Thần học chỉ bó buộc người ta trong niềm tin chứ không thể giải đáp những khát vọng của con người. Jaspers đã đưa con người về với chính mình bằng niềm tin vào triết lý. Theo ông, niềm tin triết học là niềm tin của con người vào những khả năng của mình. Niềm tin này nói lên tự do tính của con người. Niềm tin là một hành vi hiện sinh. Con người cảm nghiệm trong cuộc sống hiện sinh của mình những hữu hạn như: sinh - lảo - bệnh - tử; thì mình biết đặt niềm tin vào Đấng Tuyệt Đối, Vĩnh Hằng vượt trội của vũ trụ. Và đây là thần học tích cực với phương pháp nghịch lý. Ông gọi Tuyệt Đối Thể là “Bao Dung Thể”. Nghĩa là mỗi tri giác, mỗi ý tưởng, mỗi tình cảm… của ta đều không được quan niệm theo những khuôn khổ, hạn từ rõ rệt thành những ý tưởng minh bạch khúc chiết kiểu của Descartes chẳng hạn. Vì bên ngoài và chung quanh mỗi cái luôn luôn còn một cái gì rộng rải bao quanh lấy. Con người không thể bị đóng khung bởi chính mình và cũng không thể bị đóng khung bởi ngoại cảnh.
Thế nhưng, Bao Dung Thể đối với ông cũng không thể diễn tả một cách rõ ràng khúc chiết. Vì đây là một trực giác tối tăm do kinh nghiệm giới hạn. Để giải đáp vấn đề này, ông đi đến phương pháp tượng số.
Tượng số là giá trị có tính cách mạc khải cùng với kinh nghiệm về Siêu Việt Thể. Tượng số không phải là biểu tượng, cũng không phải là ký hiệu được dùng theo công ước. Tượng số là một biểu tượng có khả năng cho ta thấy huyền nhiệm. Con người có khả năng vô cùng tận. Tượng số đến với mỗi con người cách khác nhau. Ví dụ như thư, mặt chữ… Tượng số chỉ có nghĩa cho những ai biết đọc mà thôi. J.Wahl định nghĩa rằng: Tượng số là tiếng nói vô cùng và là tiếng nói muốn diễn tả cái vẻ “cùng kỳ lý” của vũ trụ. Tượng số là tiếng nói vô cùng, vì nó, dù không diễn tả vô cùng, nhưng là một lời mời gọi khẩn thiết, thúc giục những ai biết suy nghĩ. Bất cứ sự vật nào cũng có thể trở thành tượng số, nhưng Jaspers thường nói tới một số loại căn bản như vũ trụ, ý thức nói chung, tinh thần, tội lỗi, cái chết, và nhất là hiện sinh. Đó là con đường siêu việt. Như thế, theo Jaspers, nếu đã thành tâm đi tới cùng kiệt tự do của hiện sinh, ta gặp được siêu việt trong chính chỗ thất bại của tự do. Ông có kinh nghiệm về sự thất bại nhất là sự chết. Chính cảm nghiệm thất bại đó dẫn ta vào chiều sâu tâm linh. Nghĩa là phải thanh luyện thái độ duy lý tiềm ẩn trong tâm hồn ta. Hiện sinh làm ta chạm trán với siêu việt, như đó là một tác động nội tại của chính tự do.
KẾT LUẬN:
Trên đây là sơ lược về con đường suy tư phức tạp của Jaspers đã dùng để đi từ những bình diện thô sơ, hạ đẳng lên tới Siêu Việt. Tư tưởng của Jaspers có ảnh hưởng sâu xa trên nền triết học hiện đại. Ông đã không đi tìm những chân lý, hiểu biết cho mình, mà chính là nỗ lực suy nghĩ tìm chân lý cũng như giá trị cho người khác. Ông đã đưa con người về với giá trị đích thực của chính mình là một con người hoàn toàn sống với những gì mình là. Một con người có khả năng tư duy trong tự do đích thực và luôn biết hướng về Siêu Việt Thể trong niềm tin vững vàng vào tôn giáo. Ông đã giúp con người trả lời thắc mắc muôn thủa: “tôi sinh ra ở đời này để làm gì và chết rồi đi đâu.
Vâng Khổng Tử đã nói “Đạo trời chỉ có một, tất cả thiên hạ tìm về một mối”. Bao Dung Thể của Karl Jaspers là một điểm quy tụ cả triết học lẫn thần học qua giá trị mạc khải với kinh nghiệm của cá nhân với phương pháp tượng số nhằm giúp con người ý thức được mình và tìm về con đường cuối cùng là Tuyệt Đối, là Thiên Chúa, cứu cánh tối hậu của đời người.
Những tài liệu tham khảo
- Samuel Enock Stumpf, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, NXB Lao Động, 2004.
- Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch Sử Triết Học Nhập Môn, Tập IV, thời Hiện Đại, 2004.
- Karl Jaspers, Triết Học Nhập Môn, bản dịch Lê Tôn Nghiêm, Bộ Giáo Dục và Thanh Niên, 1969.
- Những vấn đề lớn của Triết học: Con người – Vũ trụ - Thượng Đế.
- Đại Cương Triết Sử Tây Phương, thời Hiện Đại.
- Lm. Trần Đình Thụy, Dẫn Nhập Triết Học Cận - Hiện Đại (thời mới), phần tóm dành cho sinh viên.
- Phan Văn Chức, Những Trào Lưu Triết Học Hiện Sinh, Tủ sách La San.
- Lm. Gs Vũ Đức Thận, Đọc Kinh Thánh Với Đức KiTô, Tĩnh Tâm Lm & Ts giáo phận Long Xuyên, tháng 12/2005.
Tất Bật
0 nhận xét:
Đăng nhận xét