(Tiếp theo kì trước)
2. Giáo huấn của thánh Phaolô
Như tôi đã nói ở trên, nơi thánh Phaolô, chúng ta gặp thấy hai bản văn nói về quyền bính chính trị, dân sự hoặc gia đình, cũng như liên quan đến sự cai trị và những thừa tác vụ của Giáo hội. Nhưng cả hai bản văn này đòi hhỏi một sự phân tích mang tính lịch sử rất phức tạp. Nó vượt ra ngoài khuôn khổ bài trình bày của tôi. Tôi dừng lại ở cái nhìn ngắn gọn chung trên hai dạng câu hỏi nhắm đến vấn đề phục vụ cộng đoàn. Đây là cách thánh Phaolô vẫn thường hay sử dụng .
Thánh Phaolô đã nói đến quyền bính chính trị (Rm 13,1-7), hoặc quyền bính của chồng đối với vợ, cha với con cái, chủ với tớ (Cl 3,18-22 ; etc.) Ngày nay những chỉ dẫn này thường làm chúng ta thất vọng, thậm chí còn khơi lên những chỉ trích gay gắt : Phaolô thần thánh hoá quyền bính chính trị khi nói rằng nó đến từ Thiên Chúa ; ngài ủng hộ mẫu quyền bính gia tộc, bài phụ nữ ; ngài bảo hộ chế độ nô lệ,... Thế nhưng ta có thể trách ngài là một người của thời đại ngài sống, có những cái nhìn hạn chế do những phong tục đã được thiết lập từ nhiều thế kỉ và được xã hội chấp nhận một cách tự nhiên hay không ? Những điều này không ngăn cản chúng ta khâm phục những nguyên tắc mà ngài đã đặt ra làm đảo lộn văn hoá cổ thời : «Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô» (Gl 3,28).
Đó là một khẳng định khai trương thời hiện đại, nó đưa xã hội từ đóng sang mở. Nó đặt nguyên tắc căn bản về sự bình đẳng của tất cả mọi người về quyền lợi và nhân phẩm. Nó là nền móng cho một lí tưởng về một sự duy nhất của nhân loại. Sự khẳng định này đặt sự tôn trọng con người trên cả quốc gia, thói tục, quyền bính. Trong tương lai nó cho phép cá nhân vượt qua những trói buộc đi ngược lại với nhân phẩm và quyền lợi của họ.
Bây giờ nếu chúng ta đề cập đến phạm vi Giáo hội, thánh Phaolô cũng là một nhà khai sáng và nhà cách mạng. Tuy nhiên ngài đóng một vai trò đặc biệt là một nhà canh tân. Rất nhiều cộng đoàn được ngài thăm viếng và giảng dạy, không phải do ngài sáng lập. Nó đã có một cơ cấu tổ chức trước đó rồi. Phaolô không chú tâm đưa đến một sự thay đổi. Ngay cả ở những nơi ngài hành xử mang tính sáng lập rõ ràng nhất, chúng ta cũng không thấy ngài quan tâm đến những vấn đề cai trị. Những sử gia quan tâm đến những thay đổi về mặt tổ chức vào cuối thời các Tông đồ dựa vào «các thơ mục vụ» được gán cho Phaolô. Nhưng những thơ này cũng không chắc chính thức là của thánh tông đồ Phaolô.
Trong những bút tích riêng của ngài, ngài để ý đến trật tự tốt trong cộng đoàn, đến sự hiệp nhất giữa các thành viên, đến sự tiến hành tốt đẹp của các tác vụ, nhưng ngài không đưa ra một nội qui tối thượng trong Giáo hội về sự phục tùng của các tín hữu đối với các nhà lãnh đạo của họ. Ví dụ, trong thơ thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, ngài khiển trách những người chia rẽ cộng đoàn (Ch.1), nhưng lời khiển trách nhắm tới những thừa tác viên hám quyền. Ngài khiển trách những tín hữu không xử những người xấu, mà lại lôi nhau ra toà án dân ngoại (Ch.5-6), lưu ý đừng làm vấp phạm cho những người có lương tâm yếu đuối liên quan đến vấn đề đồ cúng (Ch. 10), ... sau cùng ngài lo lắng đến sự cạnh tranh không lành mạnh và bất đồng trong việc thực thi các thừa tác vụ và các đặc sủng. Ngài nhắc lại sự ưu tiên của thừa tác vụ Lời Chúa được thực thi bởi các tông đồ, các ngôn sứ và các tiến sĩ. Ngài cổ võ trên hết là đức ái như là nguyên tắc của sự hiệp nhất của thân thể giáo hội (Ch. 12-14). Tất cả những điều đó ngài không quy về nguyên tắc phẩm trật của sự cai trị, cũng không nêu lên nguyên tắc tuân phục như là một điều luật tối thượng của sự hiệp nhất Giáo hội.
Sự im lặng của thánh nhân liên quan đến vấn đề này, giải thích rõ ràng tình trạng tổ chức ban đầu của những cộng đoàn tiên khởi. Ngài hoàn toàn có quyền bắt mọi người phải tuân phục các giáo huấn của ngài. Nhưng ngài thích kêu gọi trách nhiệm tập thể của mọi người, tức là sự tự do. Đây là điều chứng tỏ ngài là một nhà canh tân.
Cũng thế trong thơ gởi giáo đoàn Galát ngài viết : «Chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (Gl5,1). Ngài qui chiếu về sự tự do mang đến do Đức Kitô đối với luật Môsê. Tôi không giải thích nguyên tắc căn bản này của kitô giáo, trong lãnh vực giáo thuyết, tôi chỉ nêu lên vài hệ quả của nó về cách tổ chức của những cộng đoàn tiên khởi. Mọi tôn giáo đều chịu sự điều hành của các thói tục và truyền thống, thường là rất tỉ mỉ và xa xưa, có tầm quan trọng như luật vậy. Những người Ki-tô hữu gốc Do thái gắn bó rất lâu với những điều này, nhất là ở Giêrusalem. Nhưng người gốc dân ngoại thi muốn bỏ qua những thói tục do thái này. Thế là xảy ra những bất đồng. Nhiều người muốn trở lại với những nghi lễ do thái. Tuy nhiên một khi họ đã rời bỏ hội đường, họ không có một cách thức tổ chức nào khác, mà bắt buộc phải “nghĩ ra” đời sống chung. Điều này giải thích tại sao chúng ta thấy thánh Phaolô nói rất ít về việc cai trị, mà luôn kêu gọi trách nhiệm tập thể của các kitô hữu, chủ yếu là nhiệm vụ phục vụ lẫn nhau.
Chúng ta ghi nhận ý nghĩa quan trọng của sự phục vụ lẫn nhau nơi Phaolô, điều mà ngài kêu gọi không mệt mỏi đến tất cả các cộng đoàn : nó có liên quan trước nhất đến chương trình của Giáo hội, nó làm nên Giáo hội. Thật vậy, đối với thánh nhân, Giáo hội hoàn vũ, duy nhất của Đức Kitô hiện diện nơi từng giáo hội địa phương, nó được xây dựng và lớn lên trên hoàn vũ bởi nỗ lực của từng cộng đoàn, của từng thành viên trong cộng đoàn, hiệp nhất trong đức ái : “Anh em là thân thể Ðức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Co 12,27). Là thân thể của Đức Kitô, Giáo hội là một thân thể không thể chia cắt, là nơi sự hiệp nhất tích cực của các thành viên được tiến triển. Vì thế ta lại thấy nơi thánh Phaolô khao khát nóng bỏng về sự hiệp nhất của Đức Kitô trong những lời nguyện sau cùng với Chúa Cha (Ga 17,22-23).
Tính hoàn vũ của Giáo hội được xây dựng trước tiên bởi nỗ lực của các thành viên cộng đoàn, gạt bỏ mọi sự phân chia có nguồn gốc tôn giáo, sắc tộc hoặc xã hội. Kế đến nó tiến triển bằng việc góp chung tất cả những ơn riêng nhờ Thần khí của Đức Kitô. Sự hiệp nhất có được nhờ một hoạt động lưỡng diện xem ra hơi trái ngược, nhưng thực ra bổ túc cho nhau : một mặt huỷ bỏ mọi khác biệt gây chia rẽ, mặt khác khai thác sự khác biệt của những ân huệ của từng người, tất cả cần thiết và làm phong phú cho mái nhà chung.
Giáo hội được sinh ra từ ý thức chung của các kitô hữu có cùng một căn tính cho dù có nguồn gốc khác biệt. Tất cả được sinh ra trong Thánh Thần, cùng thuộc về Đức Kitô Đấng xoá bỏ mọi khác biệt mang tính cá nhân. Giờ đây sự lớn lên của thân thể Đức Kitô tuỳ thuộc vào đóng góp phong phú riêng của từng người, phụ thuộc vào hoa trái của những ân sủng nhận được từ Thánh Thần, vào công việc liên hệ. Và những ơn huệ càng đa dạng, những khởi xướng cá nhân càng trải rộng, thì công trình chung lại càng đẹp, càng lớn lao và chắc chắn, bởi vì thợ cả là là chính Đức Kitô. (Ep 4,11-13).
Như vậy, việc phục vụ Giáo hội mà chúng ta gọi là “tác vụ” trong tinh thần tông đồ là công việc chung, mà tất cả các tín hữu được mời gọi tham dự. Giáo hội không phải là một tổ chức nơi mà một ai đó được mời vào chiếm một chỗ dành cho họ bởi một quyền bính nào đó. Giáo hội không phải là nơi của sự lệ thuộc. Giáo hội là một sự tạo dựng mới mẻ và liên tục, tạo dựng bởi Đức Kitô và Thánh Thần, các Ngài hoạt động trong Giáo hội và trong từng thành viên, không phải vì các hoạt động được làm cùng với Đức Kitô và Thánh Thần, nhưng trong tiếp nhận và chấp nhận lẫn nhau, phó thác cho hoạt động của Thánh thần làm nên một thân thể trong Đức Kitô.
Sự phục này của Giáo hội không chỉ là việc thờ phượng thiêng liêng, kinh nguyện phụng vụ, những “việc tốt lành”, không phải là một việc nào đó được làm trong Giáo hội, hoặc cho Giáo hội, đó chính là sự xây dựng Giáo hội, là tổng thể đời sống chung của các kitô hữu. Ta thấy rõ điều này cách đặc biệt khi hợp nhau cử hành Thánh Thể (x.1Co 11), là trung tâm, không những của sự thờ phượng và huấn giáo, mà cũng là của đời sống huynh đệ và xã hội, thậm chí cả về kinh tế của các kitô hữu. Sự phục vụ là hành vi sẵn sàng của từng người đối với người khác để Giáo hội tồn tại trong mọi người như trong một thân thể duy nhất.
Điều này chỉ có thể có được do Thánh Thần. Thánh Phaolô thường quy chiếu về ân huệ hoặc “đặc sủng” của Thần khí, nhằm xây dựng Giáo hội. Dù hình thức bên ngoài lúc ban đầu có thế nào đi nữa, chúng ta cũng phải hiểu rằng, Thần khí hoạt động trước tiên bởi tác động nội tâm, soi sáng tư tưởng và lay động ý muốn con người để phục vụ cho hành động cứu độ của Đức Kitô trong và qua Giáo hội của Người.
Sự hiệp nhất của Giáo hội là kết quả của sự thông hiệp qua hai chiều kích : chiều ngang và chiều dọc. Sự thông hiệp theo chiều ngang chúng ta vừa miêu tả, được thực hiện bởi sự đồng lòng của mọi thành viên nhằm công ích, bởi hoà hợp, tha thứ lẫn nhau và mối dây huynh đệ. Sự thông hiệp theo chiều dọc là sự tùng phục Lời Chúa được phân phát bởi những thừa tác khác nhau được Phaolô kể ra như : tông đồ, ngôn sứ, mục tử và thày dạy. Tất cả những danh hiệu không chỉ định một cách rõ ràng những chức năng phẩm trật (có thể trừ một vài danh xưng như “mục tử”), nhưng là những tác vụ liên quan đến việc loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô nhắc lại thường xuyên rằng, các tác vụ này dựa trên sự thành lập mang tính lịch sử, dựa trên sứ vụ mà Đức Kitô đã trao cho nhóm 12, sau đó cho chính ngài. Quyền bính của Truyền thống cũng được thiết lập trên cơ sở này. Sự vâng phục các nhà lãnh đạo trong Giáo hội là rất quan trọng. Chẳng có gì lạ, lúc ban đầu sự thông hiệp theo chiều ngang rất dễ nhận ra, và Phaolô rất gắn bó với nó. Dĩ nhiên sự thông hiệp giữa tất cả mọi người có được là nhờ vâng phục Tin Mừng được rao giảng bởi Phaolô. Con người của ngài là mối liên hệ sống động với biến cố sáng lập.
Nhưng sự hiệp nhất và gương sáng của Giáo hội càng phụ thuộc vào sự đồng lòng của các thành viên, càng thấy cần thiết phải nội tâm hoá và cá nhân hoá việc phục vụ, mỗi người trở thành tôi tớ của anh em mình và ta được mời gọi đến với giáo huấn của Đức Giêsu về vấn đề quyền bính : “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em ”
Đức Giêsu coi sự khiêm hạ là một điều kiện căn bản để hành xử quyền bính vì nước trời. Nó cũng là điều căn bản đối với những ai có tham vọng xây dựng Giáo hội, ngoài những tất cả trách nhiệm của quyền bính, bởi một công việc chung với những người khác, nếu không sẽ là vô ích vì làm công việc riêng, tôn mình trên người khác làm thiệt hại cho công việc phục vụ chung, kèn cựa với người khác làm thiệt hại nặng nề cho sự bình an và hiệp nhất. Vì thế, như chúng ta đã ghi nhận, Phaolô thường xuyên mời gọi tín hữu của ngài đối xử với nhau cách ôn hoà, nhẫn nại, bác ái, đại lượng, không tự cao tự đại, và khi ngài yêu cầu họ “chịu đựng lẫn nhau” (Cl 3,13), từ ngữ được sử dụng là : đặt mình dưới người khác để mang lấy họ và nâng họ lên trên mình, như ngài khẳng định trong thơ gởi giáo đoàn Philiphê : “Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Ðừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Ðức Kitô Giêsu. Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.”
Ở đây chúng ta gặp lại những lời của Đức Giêsu sau bữa Tiệc ly, hay đúng hơn là gương của Đức Giêsu mà Phaolô lấy như là kiểu mẫu. Cũng như Đức Giêsu đã hạ mình xuống địa vị chúng ta để nâng chúng ta lên địa vị của Người, cũng vậy sự khiêm hạ không chỉ dừng lại ở việc tự hạ, nó còn giúp người khác trổi vượt lên, để đạt tới sự viên mãn của bản tính con người, giống con người mới và kiện toàn như Đức Kitô. Khi người kitô hữu muốn xây dựng Giáo hội trong tinh thần khiêm hạ như thế, thì sự phục vụ Giáo hội trở thành sự phục vụ nhân loại đích thực. Nó cộng tác vào sự tạo dựng mới được khai mở bởi Đức Kitô.
Thật vậy, bằng việc tạo nên những cộng đoàn tôn giáo theo hình mẫu mới, trong đó sự tự do được đặt lên trên lề luật và thói tục, sự phổ quát trên sự riêng biệt, mà Kitô giáo dần dần biến đổi xã hội và chuẩn bị cho sự xuất hiện của tính cách cá nhân. Bằng việc chỉ dạy cho các tín hữu đối xử với nhau một cách bình đẳng và như anh em, Tin Mừng tạo nên trong họ một nhân tính mới, và làm lan toả trên toàn thế giới một tinh thần nhân đạo. Đây sẽ là một lí tưởng và một yếu tố làm nên sự hoà bình và hiệp nhất giữa các dân tộc.
Thông Phán chuyển ngữ.
(còn tiếp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét