Raymond Trần Thái Sơn
Nhận biết mình là điều rất
quan trọng trong cuộc sống làm người của con người. Khi được sinh ra, con người
đã được phú bẩm với những khả năng nhận thức nhất định, nhưng khả năng nhận thức
của mỗi người không giống nhau. Khi nói đến một vấn đề gì đó, có người có khả
năng nhận thức về nó tốt; có người có khả năng nhận thức khá; có người nhận thức
trung bình, và cũng có những người có khả năng nhận thức về nó khác nữa. Cũng vậy,
khi nói đến việc nhận biết chính con người của họ, khả năng nhận ra con người của
họ cũng khác nhau: Có người biết mình nhiều, có người biết ít, thậm chí cũng có
thể có người không hiểu gì. Tuy nhiên có lẽ, ít hoặc nhiều họ cũng nhận biết về
con người của họ. Con người cần nhận biết mình có xúc cảm, có lý trí, có tự do,
có đời sống xã hội, và có đời sống tâm linh, và có mối quan hệ với thế giới tự
nhiên. Muốn trở nên người hạnh phúc, nhờ nhận thức về bản thân, con người cần sống
tốt mối tương quan với chính mình, với Thiên Chúa, với người khác, và với thế
giới tự nhiên. Đây là nội dung chính trong bài viết này. Vì bài viết này không
phải là một đề tài nghiên cứu khoa học, nên trong giới hạn của của nó, một số
điểm không được phân tích sâu.
1. Một số khái
niệm và nhận định về nhận thức của con người
Một số khái niệm chung về nhận
thức của con người được đưa ra để cho thấy nhận thức đóng vai trò thiết yếu của
con người và nhờ đó con người hiểu được bản thân mình trước khi đi đến với những
mối quan hệ khác bên ngoài. Ví dụ, tôi cần biết chắc rằng trong cuộc sống tôi,
tôi luôn tôn trọng bản thân, tôn thờ Thiên Chúa, đối xử tốt với tha nhân và thế
giới vật chất. Nếu một trong những mối quan hệ này bị tổn thương, bị gãy, hạnh
phúc cuộc sống tôi sẽ ra sao? Có lẽ nó sẽ bị thiếu hụt, không trọn hảo.
Trước hết, biết mình có nghĩa
là biết bản thân mình một cách trọn vẹn, biết phần ý thức và vô thức của mình.
Đồng thời khi biết mình cũng tạo sức mạnh, thành công và tự điều chỉnh chính
mình. Một người mà biết mình thực sự sẽ thành công vì anh ta biết rõ khả năng của
mình và lãnh vực nào để áp dụng chúng; trái lại, một người mà không biết mình sẽ
lỗi phạm liên tục và thậm chí đi đến chỗ huỷ hoại cuộc sống mình (Sahakian và
Sahakian, 1966). Điều này cho thấy rằng sự nhận thức đóng vai trò rất quan trọng
trong cuộc sống con người. Nếu tôi không biết phải làm gì, cần gì, đi về đâu, sống
với ai và cho ai … , chắc chắn tôi sẽ sống hoàn toàn khác với những gì tôi biết
về những điều này.
Bên cạnh đó, nhận thức luôn khởi
đi từ sự ý thức. Để làm rõ vấn đề này, một số vấn đề liên quan đến nhận thức
phát xuất từ ý thức sẽ được đề cập sơ lược. Khanh (2005) định nghĩa “Ý thức là
một trạng thái tỉnh thức với chức năng quan sát, ghi nhận, cảm nhận, nhận định,
phẩm định, phân định đối với các sự vật bên ngoài tôi và đối với các suy tư, cảm
xúc và hình ảnh bên trong tôi” (tr. 24). Định nghĩa này cho thấy sự ý thức giúp
con người nhận thấy được những gì là bên trong và bên ngoài họ; nói cách khác,
con người biết được con người của mình nhờ ý thức. Hơn nữa, nhờ có ý thức về ý
thức, con người có thể bắt đầu tự khám phá, tự giải thích và tự trình bày con
người của họ (Kavanaugh, ?).
Khanh (2005) đã nhận định về ý
thức khá sâu sắc. Ông cho rằng là con người đích thực khi họ có ý thức. Một người
có ý thức là họ: Hiểu biết nhiều và sâu rộng; biết việc họ làm và đồng thời chịu
trách nhiệm trên những gì họ làm; một cách đơn giản nhưng sâu xa là ý thức họ
đang hiện hữu và đang sống sự hiện hữu của họ trong liên đới với người khác và
thiên nhiên. Sống có ý thức rất đơn giản và sâu xa là biết mình đang làm gì và
đang là gì.
Morin (2005) phân chia ý thức
thành hai nhánh: ý thức nhận thức và ý thức về bản thân. Hai nhánh này tuy hai
mà là một vì ý thức về mình nằm trong ý thức tri thức và vì chúng nhắm đến đối
tượng nhưng đồng thời cũng nhắm đến chính mình. Ông cũng cho rằng sự tự tính
toán và tự suy nghĩ là nguyên lý căn bản cho ý thức về bản thân; sự ý thức về bản
thân của mình giúp cho chủ thể sắp xếp lại tri thức của mình và thậm chí còn có
thể đặt lại những vấn đề và những quan điểm của mình. Mặt khác, ông nhận định ý
thức của con người luôn có hai mặt: Chủ quan và khách quan, xa cách và bên
trong, lạ lùng và thân thiết, ngoại vi và trung tâm, hiện tượng phụ và cốt yếu;
cho nên có ít người là tự biết mình vì cái họ biết khá đúng cũng khá sai. Mỗi người
có hiểu biết về mình nhưng họ cũng lầm lẫn và lừa dối chính họ. Ví dụ, một người
vừa cho mình là chẳng là gì vừa cho mình là trung tâm của vũ trụ. Như vậy, con
người cần phát triển ý thức bản thân bằng cách trau dồi năng lực phân tích và
nhờ sự giúp đỡ nhận xét của người khác.
Hơn nữa, qua giao tiếp với người
khác và với xã hội, ý thức cá nhân được hình thành. Khi giao tiếp, thông tin được
truyền tải và tiếp nhận, và như vậy, cá nhân có thể hiểu biết người khác và đối
chiếu với bản thân, với chuẩn mực xã hội. Đồng thời họ có được sự tự nhận thức,
tự đánh giá và điều khiển hành vi của mình (Uẩn, Lũy và Lang, 2008). Nhờ có cuộc
sống xã hội, mối liên hệ với những người chung quanh, sự tự nhận thức và ý thức
của con người được hình thành.
Từ các khái niệm trên cho thấy
sự tự nhận thức (tự ý thức) của con người đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc
sống con người; nó giúp cho con người nhận được cái gì là bên trong và bên
ngoài của mình, những gì liên quan và có mối quan hệ đến cuộc sống của con người.
Khi con người nhận biết mình là “một đơn vị hợp nhất toàn vẹn” (integrated
unity) (Kavanaugh, ?, tr.6), có nghĩa là con người bao gồm xúc cảm, yêu thương,
tâm linh, thân xác, lý trí, tự do, tính xã hội, các giác quan nhận thức, và những
yếu tố khác của con người, và phát triển và áp dụng chúng một cách tốt nhất có
thể trong cuộc sống và đặc biệt là trong bốn mối tương quan được đề cập sau
đây, chắc chắn con người có hạnh phúc trọn vẹn.
2. Mối tương
quan của con người hướng tới sự trọn hảo
Con người cần hiểu biết con
người của mình có những gì: Những gì cần phát triển nó, những gì cần giới hạn
nó, những gì cần theo đuổi đến mức tốt nhất có thể, những gì cần làm một cách
tương đối. Hiểu biết mình là điều quan trọng nhất của con người, nhưng những điều
sau đây cũng không kém phần quan trọng. Đó là, con người cần nhận ra và phát
triển tốt các mối quan hệ trong cuộc sống làm người: Giữa tôi với tôi, tôi với
Chúa, tôi với người khác, và tôi với thiên nhiên.
Tại sao cần có mối quan hệ tôi
với tôi? Tại sao tôi phải đối xử tốt đối với tôi? Khi tôi ý thức và nhận thấy
con người của mình có những mặt tốt và xấu, tôi cần trân trọng bản thân mình
cách tốt nhất. Nói cách khác, tôi không thể làm những gì mang đến sự nguy hiểm
và tổn hại cho cuộc sống tôi. Nếu tôi ăn uống quá độ, chắc chắn điều này sẽ ảnh
hưởng đến sức khoẻ của tôi; và nếu điều này cứ kéo dài hoặc xảy ra thường
xuyên, sức khoẻ của tôi chắc sẽ dần dần trở nên tệ hại hơn nhiều. Khi tôi biết
tôn trọng phẩm giá, danh dự, nhân cách, sức khoẻ, tri thức, tâm linh, con người
của tôi tốt, chắc sẽ phần nào tôi biết tôn trọng người khác tốt được. Bernstein
(1990) nói về việc làm chủ chính mình, ông cho rằng con người không phải là làm
chủ người khác, thế giới bên ngoài nhưng là làm chủ chính mình. Đây là vấn đề cần
chú ý khi đánh giá bản thân. Hơn nữa, Moga (2004) nhận định rằng “con người hiện
hữu là sống trong một số thế giới, và để hiểu tôi là ai tôi phải vượt ra khỏi
những chi tiết mà tôi biết về cuộc sống tôi và đánh giá cao về con người của
mình, một cảm nhận trong tất cả mọi khía cạnh hoặc mọi mặt” (tr.88). Như vậy
khi tôi biết tôi, tôi sẽ trân trọng bản thân mình, hài lòng với những gì tôi
đang có, và sống cuộc sống hiện tại đáng trân trọng.
Không chỉ mối tương quan với
chính tôi mà còn mối tương quan với người khác giúp cho tôi lớn lên về mọi mặt:
tâm linh, yêu thương, nhân cách, tư tưởng, tri thức, và những thứ tương tự. Tôi
có những liên hệ với cá nhân cũng như tập thể trong xã hội. Bên cạnh đó. vì con
người vốn có xã hội tính nên tự bản thân con người luôn hướng về người khác nên
họ cần có người khác để cuộc sống thêm ý nghĩa và hạnh phúc hơn. Cũng vậy, tôn
trọng người khác: quyền sống, tự do, tài sản, đời sống cá nhân, và các quyền
khác của họ là điều thiết yếu của mỗi con người. Babor (2007) cho rằng con người
là người luôn luôn hiện hữu với người khác trên thế gian. Điều đó cho thấy, khi
sống trên trái đất, mỗi con người luôn sống với người khác.
Cho dù là ai, tự bản thân con
người dù có cố gắng hết sức để đạt được hạnh phúc tuyệt đối nhưng cũng không thể
được. Con người vốn là một tạo vật hữu hạn nên tự thân và thậm chí cùng với sự
trợ giúp của người khác họ cũng không thể có mọi thứ toàn hảo. Cho nên thánh Âu
Tinh (De Beata Vita, IV, 35, trích trong Gilson, 1960) đã cho rằng, hạnh phúc đích thực thì không nằm ở
thế gian này. Con người phải tìm kiếm hạnh phúc bằng cách đi vượt ra khỏi thế
giới tự nhiên của mình, vì con người là bất toàn trong thế giới tự nhiên. Trên
thế gian này chắc chẳng có gì tồn tại muôn thuở ngoài Thiên Chúa. Cũng trong tác
phẩm này của thánh Âu Tinh (II, 11), ngài đã khẳng định: Vì Thiên Chúa là vĩnh
cửu và vì thế Ngài là Đấng không thay đổi và độc lập hoàn toàn, nên chỉ có ai
chiếm hữu được Ngài người đó sẽ có được hạnh phúc. Những trải
nghiệm này và những kiến thức và cảm nghiệm về Thiên Chúa chắc đã thôi thúc
ngài phải thốt lên rằng “… tâm hồn chúng con áy náy không ngừng, cho tới khi
được nghỉ yên trong Chúa” (Augustine, 2009, tr.15). Cho nên, theo thánh nhân,
hạnh phúc đích thực của đời sống con người là biết Chúa và yêu mến Ngài. Sự xác
quyết này cho thấy con người trước hết cần nhận biết là bản thân mình cần yếu
tố thánh thiêng.
Hơn nữa, con người không thể
hiện hữu nếu không có thế giới vật chất. Họ cần nhà cửa để cư trú, các phương
tiện để đi lại, không khí để thở, nước và thực phẩm để nuôi sống, và những thứ
khác nữa. Thế giới vật chất là điều kiện
cần để con người sống trọn vẹn hơn. Nếu tôi thiếu thốn nhiều điều kiện căn bản
trong cuộc sống như quần áo, nhà cửa, thực phẩm ăn uống hằng ngày và cho dù tôi
có ý thức và nhận thức về mình một cách tương đối tốt, cuộc sống tôi sẽ ra sao?
Có lẽ câu trả lời sẽ nghiêng nhiều về khía cạnh tiêu cực. Thêm vào đó, nếu tôi
không tôn trọng thế giới thiên nhiên, căn nhà tôi đang ở, phương tiện đi lại
tôi đang sử dụng, và tất cả các thứ khác nữa, tôi sẽ không có để sử dụng và cuộc
sống tôi sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cũng vậy, việc tôn trọng thiên nhiên
không chỉ giúp cho cuộc sống cá nhân và cho cả tập thể trong hiện tại và cả
trong tương lai. Khí hậu trái đất ngày càng tăng là do việc phá rừng, hiệu ứng
nhà kính, chất thải, và vân vân. “Mỗi ngày … người Mỹ thải ra 1,5 triệu tấn chất
thải nguy hiểm” (theo tin CBS ngày 17-02-1986, trích trong Clinebell, 1995,
tr.179). Bên cạnh đó, Clinebell (1995) cho rằng con người hướng tới con người
trọn hảo của mình bằng cách giúp chữa lành một hành tinh đã bị thương tích. Tóm
lại, Thiên Chúa đã dựng nên con người và tạo ra mọi loài và giao cho con người
sử dụng và làm chủ chúng. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà con người có quyền muốn
làm gì và cách nào đối với chúng cũng được. Một chân lý căn bản là con người được
quyền sử dụng mọi vật trong tự nhiên với sự tôn trọng và quản lý chúng một cách
đúng đắn.
Kết luận
Từ những lập
luận trên, qua ý thức và nhận thức, con người nhận ra con người mình và những mối
tương quan mang bốn chiều kích khác nhau của mỗi cá nhân. Đây là một chặng đường
dài đi từ nhận thức chính mình đến áp dụng chúng trong cuộc sống. Khi đã nhận
biết mình tốt và thực hiện tốt, con người mỗi ngày trở nên người hơn, nên thánh
hơn, sống tốt với mọi người, và yêu thương thiên nhiên hơn.
PS: Bài này tác giả sử dụng phương pháp trích dẫn APA, độc giả có thể tìm hiểu thêm
về phương pháp này tại: http://goo.gl/ZJHNe (BBT)
=================
Tài Liệu Tham Khảo
Augustine. (2009).
Tự thuật. Dịch bởi Đức cha
Micae Nguyễn Khắc Ngữ. Long Xuyên: Toà Giám Mục Long Xuyên.
Babor, E. (2007). The
human person not real, but existing. (tái bản lần 2). Quezon: C & E
Publishing.
Bernstein, H. E. (1990). Being
human the art of feeling alive. New York: Gardner Press.
Clinebell, H. (1995). Well
being. Quezon: Kadena Books.
Gilson, E. (1960). The Christian philosophy of saint Augustine.
New York: Random House.
Kavanaugh, J. (?). Readings on human identity and the mind-body problem. Textbook for
the Philosophy of Human Nature course at saint Louis University.
Khanh, H. L. (2005). Tâm lý học chuyên sâu. Tp HCM: Nhà Xuấn
Bản Trẻ.
Morin, E. (2005). Tri thức về tri thức. Hà Nội: Nhà Xuất Bản
Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Sahakian, W. S., &
Sahakian, M. L. (1966). Ideas of the
great philosophers. New York: Barnes & Noble, Inc.
Uẩn, Q. N., Luỹ, V. N., & Lang, V. Đ.
(2008). Giáo trình tâm lý học đại cương.
Hà Nội: Nhà Xuất Bản Thế Giới.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét