(tiếp theo)
Bart Khánh
Dẫn nhập
I. Đức Kitô
là tư tế đích thực và duy nhất
1. Mầu nhiệm
nhập thể của Đức Kitô
1.1. Đức
Kitô được Chúa Cha thánh hiến trên sông Giođan
1.2. Đức
Kitô tư tế trong hoạt động rao giảng Tin Mừng
2. Khởi đầu
và hoàn thành chức tư tế của Đức Kitô
2.1. Hy tế của
Đức Kitô trên thập giá
2.2. Sự Phục
Sinh của Đức Kitô
II. Chức tư
tế trong Bí tích Thánh Tẩy
1. Tham dự
vào nhiệm thể Chúa Kitô
1.1. Nghĩa tử
của Thiên Chúa
1.2. Tham dự
vào mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô
2. Sứ vụ tư
tế của người Kitô hữu
2.1. Đức
Kitô tư tế là khởi nguồn…,
2.2. Chức tư
tế của người Kitô hữu qua cử hành phụng vụ
III. Chức tư
tế trong Bí tích Truyền Chức
1. Chức tư tế
thừa tác được thánh hiến cho Chúa Kitô
2. Chức tư tế
thừa tác trong cộng đoàn phụng vụ
IV. Chức tư
tế trong cộng đoàn phụng vụ
1. Tương đồng
của chức tư tế cộng đồng và thừa tác
2. Dị biệt
giữa chức tư tế cộng đồng và thừa tác
Kết luận
Hình ảnh
này chúng ta sẽ thấy được qua việc Đức Kitô trao ban chức tư tế của Người cho
các môn đệ và được truyền lại cho những người kế vị các ông. Thánh Phaolô khẳng
định điều này như sau: “Cho đến ngày Chúa
đến, mỗi lần ăn bánh và uống chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết”
(1Cr 11,26). Muốn điều này được thực hiện thì chức tư tế của Người phải tồn tại
qua việc truyền lại cho những người kế vị các tông đồ.
Chính
Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ trao cho họ sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa. Hơn nữa trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã truyền
lệnh cho các tông đồ: “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Đó
là nhân tố quan trọng sau này trở thành một cộng đồng mà chúng ta gọi là Giáo
hội. Người đã gán cho họ những của ăn mà Người chia sẻ với các môn đệ một ý
nghĩa đặc biệt, như thế Người đã cung cấp cho họ một nghi lễ cộng đồng, sau này
được gọi là hy tế và những người cử hành gọi là tư tế.[1]
Công
đồng Triđentinô tuyên bố trong Hội thánh Công giáo có một chức tư tế hữu hình
và khả giác, một phẩm trật do ý muốn của Thiên Chúa thiết lập, có nghĩa là một
chức tư tế đặc biệt vì một cấp bậc tư tế đặc biệt khác hẳn với cấp bậc giáo dân
theo bản chất. Chỉ nhờ qua một Bí tích đặc biệt, đó là Bí tích Truyền Chức
Thánh nhưng chỉ gồm chức Giám mục và linh mục mà người tín hữu được đón nhận
vào cấp bậc tư tế. Trong sách Công vụ tông đồ trình bày việc đặt các thầy phó
tế như sau: “Họ đưa các ông ra trước mặt
các Tông đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đặt tay trên các ông” (Cv
6,6).
1. Chức tư tế thừa tác được thánh hiến cho Đức
Kitô
Đức Kitô
được Chúa Cha phái xuống trần gian (Ga 10,26), Người đã kêu gọi các tông đồ để
tiếp tục công trình của Người. Công trình của Người đó là trở thành hy lễ hiến
tế dâng lên Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Chính “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (Xc.
1Cr 5,7).
Không
phải chỉ có chức tư tế thừa tác mới được thánh hiến cho Đức Kitô. Mà tất cả
những ai đã lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy đều được thánh hiến và thuộc về Chúa
Kitô. Tuy nhiên những người được thánh hiến trong Bí tích Truyền Chức được
thánh hiến cho Chúa Kitô cách đặc biệt hơn, họ được mời gọi để bước theo sát
Chúa Kitô hơn. Trong nghi thức của Bí tích Truyền Chức họ được xức dầu thánh
hiến biểu hiện cho việc tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô. Chức tư tế, thừa
tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Giáo hội, được thi hành bởi những người có
chức vụ khác nhau, mà từ xưa được gọi là Giám mục, Linh mục. Linh mục dù không
có quyền tư tế tối cao và tùy thuộc vào Giám mục, khi thi hành quyền bính hiệp
nhất với Giám mục. Nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh linh mục được cung hiến theo
hình ảnh Chúa Kitô, thầy cả Thượng Phẩm vĩnh viễn (x. Dt 5,1-10; 7,24; 9,11-28),
để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa
với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước.[2]
Như vậy,
nhờ việc truyền chức thánh người Kitô hữu được tham dự vào thừa tác vụ thánh,
thừa tác vụ này nhằm phục vụ Giáo hội như thân thể Chúa Kitô và phục vụ thân
thể Đức Kitô trong tư cách là đầu. Có hai cấp bậc khác nhau trong thừa tác vụ
thánh: Giám mục, linh mục. Trong thời gian đầu các tài liệu của Giáo hội không
đưa ra giải đáp cho vấn đề. Tuy nhiên bản chất chức tư tế mới là quan trọng,
còn cơ cấu và tổ chức chỉ là vấn đề phụ thuộc. Quyền hành Giám mục và linh mục
có thể thay đổi theo thời gian, trong khi đó bản chất chức Giám mục và linh mục
không thay đổi.
Đối với
Công đồng Trentô, nội dung chức tư tế thừa tác là “quyền tư tế” là “quyền thánh
chức”, quyền trên Bí tích Thánh Thể, Bí tích Hòa Giải, Thêm Sức, Xức Dầu. Linh
mục là người tế lễ. Tuy nhiên Công đồng còn cho thấy ngoài việc cử hành Bí
tích, chức tư tế còn bao gồm cả sứ vụ cử hành Lời Chúa. Chức tư tế này chỉ được
nhìn theo quan điểm Thánh Thể và các Bí tích khác.
Đối với
Công đồng Vaticanô II, nội dung chức tư tế thừa tác rộng hơn: tất cả công tác
“Phúc Âm hóa” hướng về hy tế Thánh Thể. Linh mục là thừa tác viên rao giảng Tin
Mừng cho lương dân, thừa tác viên xây dựng Giáo hội, thừa tác viên cử hành
Thánh Thể. Chức tư tế thừa tác bao trùm mọi sinh hoạt của Giáo hội, nhưng một
cách đặc biệt hơn gắn liền với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Thực vậy, truyền
thống được diễn tả qua các nghi thức phụng vụ và qua thói quen của Giáo hội cho
thấy: qua sự việc đặt tay và qua lời nguyện thánh hiến, xin ơn Thánh Thần thông
ban và tích ấn được in trên các Giám mục và linh mục nên các ngài thi hành
nhiệm vụ của chính Đức Kitô là Thầy, Chủ Chăn và Tư Tế.
2. Chức tư tế thừa tác trong cộng đoàn phụng vụ
Chức tư
tế thừa tác bao gồm chức Giám mục, linh mục. Khi lãnh nhận Bí tích Truyền Chức
thừa tác viên chức thánh lãnh nhận ấn tín không thể xóa nhòa được, họ được
thánh hiến và cắt cử để tùy theo cấp bậc, thay mặt Đức Kitô dẫn dắt dân Chúa. Trong
phụng vụ thông thường họ là những người khởi sự và chủ trì vì là đại diện của
Chúa Kitô.
Những
người có chức tư tế thừa tác quy tụ, điều khiển các buổi cử hành phụng vụ, công
bố Tin Mừng cứu độ, liên kết cộng đoàn với ngài và dâng hy lễ lên Chúa Cha nhờ
công nghiệp của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Vai trò này diễn tả mầu nhiệm
Thân Thể Chúa Kitô như là những chi thể được liên kết với đầu là Đức Kitô và
Hội Thánh là thân thể. Chức tư tế thừa tác là trung gian nghĩa là chẳng những
tùy thuộc vào Đức Kitô mà làm cho hoạt động cứu độ của Người hiện hữu. Trong
Hội thánh, sự kết hợp giữa loài người với Thiên Chúa trong Đức Kitô được thể
hiện, sự kết hợp này là tận điểm hoạt động trung gian của Đức Kitô. Để cứu
chuộc loài người, được Đức Kitô đã hiến dâng mình cho mọi người.
Chức tư
tế thừa tác chủ yếu hệ tại việc một người được ban cho các năng quyền là được
thánh hiến và quyền dâng Mình và Máu Thánh Chúa Kitô trong thánh lễ, quyền được
tha các tội đã phạm sau khi rửa tội qua Bí tích Thánh Tẩy và Xức Dầu. Nói cách
khác chức tư tế thừa tác là đại diện trong các Bí tích. Hội thánh có quyền đại
diện Chúa Kitô trong Bí tích, khi tư tế thừa tác cử hành các công việc phụng vụ
của Hội thánh. Nghĩa là con người tư tế thừa tác là dụng cụ có lý trí, nhưng
vẫn là dụng cụ, được gắn liền với những hoạt động đó là do Chúa Kitô mà thôi.
Người lãnh nhận chức tư tế thừa tác là đại diện hữu hình của Chúa Kitô là một
phẩm tước có tính cá nhân mặc cho một người. Nhưng chỉ là cách diễn tả theo
kiểu Bí tích, chứ không phải ám chỉ người thụ lãnh có giá trị cá nhân. Trái lại
chức tư tế thừa tác là một sự phong phú của Hội thánh và đối với mọi người là
một giá trị có tính cách ân ban cho con người của Đức Kitô. Chức tư tế thừa tác
cũng có liên hệ mật thiết và tùy thuộc chặt chẽ vào chức tư tế của Đức Giêsu.
Mà chức tư tế thừa tác chỉ có ý nghĩa khi đưa Hội thánh bước theo con đường
hiến tế của Chúa Kitô. Bây giờ có thể nói rằng các lễ tế thiêng liêng của con
người được dâng trên bàn thờ kết hợp với hiến tế của Đức Kitô để dâng lên Chúa
Cha.
IV. Chức tư tế trong cộng đoàn phụng vụ
Theo
giáo lý của Giáo hội Công giáo thì khi chịu phép rửa tội người được rửa tội
cũng được xức dầu thánh để lãnh nhận ơn riêng của Chúa Thánh Thần, nhờ
đó “ trở thành một Kitô hữu”, nghĩa là được xức dầu, gia nhập vào Thân
Thể Chúa Kitô là Đấng đã được xức dầu để làm tư tế, ngôn sứ và vương đế.” (x.
SGLGHCG, số 1241).
Nói khác
đi, qua Bí tích Rửa Tội, người tín hữu được tái sinh trong sự sống mới và được
“ mặc lấy Chúa Kitô” như Thánh Phaolô dạy ( x.Gl 3,27). Cũng qua Phép Rửa,
người tín hữu được tham dự vào chức tư tế, ngôn sứ và địa vị vương đế của Chúa
Kitô như Giáo hội dạy trên đây. Chính vì vinh phúc lớn lao này mà xưa kia các
Thánh Giáo phụ đã gọi các tín hữu Chúa Kitô, tức những người đã được tái sinh nhờ
Phép Rửa là những “Đức Kitô thứ hai = Alter Christus”. Từ ngữ này về sau
cũng được dùng để chỉ các tư tế có chức thánh như Giám mục và Linh mục.
Khi nói
đến người tín hữu giáo dân là nói đến một thành phần Dân Chúa đông đảo nhất
trong Giáo hội không thuộc về hàng giáo sĩ hay tu sĩ như Thánh Công Đồng
Vaticanô II đã định nghĩa trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium. ( LG. số
31). Sự phân chia ra ba thành phần này không nhằm nói lên phẩm giá của ai
cao hơn ai, hay vai trò nào quan trọng hơn vai trò nào mà chỉ muốn nói lên đặc
tính hay chức năng của mỗi ơn gọi mà thôi. Thánh Phaolô đã cắt nghĩa sự khác
biệt trong ơn gọi và vai trò của các thành phần Dân Chúa như sau: “cũng như trong một thân thể, chúng ta có
nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng
vậy : tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Chúa Kitô, mỗi người liên đới
với người khác như những bộ phận của một thân thể.” ( Rm 12: 4-5).
Chức tư
tế là để hiệp thông với Chúa qua cử hành phụng vụ để thờ phượng Chúa, nhưng
người thờ phượng Chúa đích thực là thờ phượng trong chân lý và sự thật. Cho
nên, nói đến chức tư tế chúng ta phải hiểu là dâng hiến “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em: anh em
hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” (Cr 11,24). Phụng vụ chính
là việc cử hành lại hay tưởng niệm lại các mầu nhiệm của Chúa Kitô. Vì vậy,
đích điểm của phụng vụ chúng ta nhắm đến chính là hiến tế chính mình như Đức
Giêsu để dâng lễ vật lên Chúa Cha. Anh em là những người đã từ cõi chết trở về,
anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ
để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa. Tội lỗi sẽ không còn quyền chi đối
với anh em nữa, vì anh em không còn phải lệ thuộc vào luật, nhưng lệ thuộc vào
ân sủng (Rm 6,13-14).
Chức tư
tế trong cử hành phụng vụ còn có những bổn phận khác theo thánh Phaolô là loan
báo Tin Mừng. Phaolô nói: “Tôi viết thế
là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người Phụng vụ Đức Kitô giữa
các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để dân ngoại
được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm
15,16). Như vậy loan báo Tin Mừng cũng là một hình thức thực hiện nhiệm vụ tư
tế của người Kitô hữu.
1. Tương đồng của chức tư tế cộng đồng và thừa tác
Nghĩa là
giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân chỉ là những bộ phận khác nhau của cùng một
Nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo hội mà thôi. Khác nhau về chức năng nhưng đều quan
trọng và cần thiết cho sự hoạt động và sống còn của Nhiệm thể.
Khi nói
đến chức tư tế là nói đến Chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế
theo phẩm trật Menkixêđê (Dt 5: 10). Nghĩa là chỉ có Chúa Kitô là
Thầy Cả hay Linh Mục Thượng Phẩm duy nhất đã dâng Hy Tế đền tội thay cho nhân
loại một lần xưa trên thập giá. Khi đó, Người vừa là Bàn Thờ, vừa là Của Lễ và
là Linh Mục.
Chúa
Kitô vẫn tiếp tục dâng Hy Tế này cách bí nhiệm qua tác vụ của Giáo hội, cụ thể
qua thừa tác vụ của các giáo sĩ có chức thánh như giám mục và linh mục,
là những người nhờ Bí tích Truyền Chức thánh mà được phép nhân danh Chúa
Kitô để “làm vịệc này mà nhớ đến Thầy”
tức cử hành Thánh lễ Tạ Ơn hàng ngày ở khắp mọi nơi trong Giáo hội.
Đây là
chức tư tế của hàng giáo sĩ phẩm trật hay thừa tác xuất phát từ bí tích truyền
chức thánh. Ngược lại, chức tư tế chung của mọi Kitô hữu hay giáo dân là
chức phát sinh từ Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, chứ không từ Bí tích Truyền Chức
thánh. Vì thế, giáo dân không được phép cử hành các Bí tích, nhất là Bí tích
Thánh Thể. Chỉ trừ trường hợp nguy tử, khi không tìm được các thừa tác viên có
chức thánh (Giám mục, Linh mục, Phó tế) giáo dân mới được phép cử hành Bí tích
Rửa Tội mà thôi.
Cho dù
là chức tư tế cộng đồng hay thừa tác tất cả đều xuất phát từ chính Đức Kitô.
Cho nên, phải dõi bước theo Đức Kitô trên con đường vác thánh giá theo Người là
hợp lý. Có thể nói là phải đi trên con đường Người đã đi, hay là sống như là
một Kitô khác. Nét nổi bật của chức tư tế nơi Đức Giêsu chính là tinh thần Phục
vụ. Phục vụ của Đức Kitô là phục vụ tha nhân. Theo thánh Phaolô đó chính là
những công việc như lao động, quyên góp, cầu nguyện, chịu đau khổ trong cuộc
đời, người tư tế của Chúa Kitô phải biết sửa sai và phải là người rao giảng Tin
Mừng.
Khi lao
động giúp ta tiếp xúc được nhiều người, mọi người cùng nương tựa vào nhau để
sống. Qua lao động chúng ta sẽ khám phá ra điều lớn lao hơn “điều tôi tìm kiếm không phải là của cải của
anh em mà là chính anh em” (2Cr 12,14). Quyên góp là một hình thức cộng tác
với việc giúp đỡ những người nghèo khổ, khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống. Qua
việc này dạy cho mọi người tâm tình biết hy sinh và chia sẻ với người khác. Với
việc cầu nguyện, đây là việc rất quan trọng của những người cùng tham dự vào
chức tư tế với Chúa Kitô. Khi chúng ta cầu nguyện là thay cho mọi người ca tụng
và cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả mọi hồng ân Người ban cho chúng ta cách này cách
khác. Người lãnh nhận chức tư tế của Đức Kitô còn phải là những người mang
trong mình cuộc khổ nạn của Đức Giêsu “chúng
tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức
Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10). Người mang
chức tư tế không mong muốn thoát khỏi cuộc sống đời này đầy những áp lực, thử
thách bên ngoài là sự bách hại và các bệnh tật. Đây chính là những điều làm
chứng cho chức tư tế của Chúa Kitô chính Người cũng vì nhân loại mà phải chịu
những đau khổ như thế. Một điều không thể thiếu nơi người mang chức tư tế của
Chúa Kitô là người phải biết sửa dạy. Sửa dạy không chỉ cho cá nhân mình mà
phải biết giúp người khác điều chỉnh thái độ sống sao cho xứng đáng là con cái
Chúa hơn. Bởi vì khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy người Kitô hữu trở thành con
người mới trong Chúa. Con người mới được hiểu theo nghĩa biết thay đổi từ sửa
chữa những thói hư tật xấu như: sống chia rẽ, sai lạc về đức tin, sống thiếu
bác ái, thiếu cung kính với Bí tích Thánh Thể…công việc sửa dạy bản thân là một
phần trong công việc phục vụ Đức Kitô. Sửa sai huynh đệ cũng được Giáo hội mời
gọi khẩn thiết cùng làm cho một xã hội sống công bằng và bác ái hơn với nhau.
Rao
giảng Tin Mừng là một công việc trung tâm hơn cả của người Kitô hữu đã lãnh
nhận Bí tích Rửa Tội. Một số người Kitô hữu ngày nay thật sự chưa hiểu biết nên
cho rằng những công việc rao giảng Lời Chúa là việc của những người lãnh chức
tư tế thừa tác là các Giám mục, linh mục và là công việc của các tu sĩ. Bởi vì
họ chỉ nghĩ việc rao giảng lời Chúa là việc giảng dạy giáo lý và giảng Kinh
Thánh. Phaolô người tông đồ được ơn trở lại đã nói: “khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Theo
Phaolô đây là một công việc thiết yếu và cấp bách vì “làm sao họ tin được Đấng họ không nghe? Làm sao họ nghe được nếu không
có người rao giảng? Làm sao mà rao giảng được nếu không được sai đi?” (Rm
10,14-15). Khi lãnh nhận chức tư tế của Chúa Kitô là chúng ta cùng đồng thời
lãnh nhận chức ngôn sứ của Chúa. Cho nên rao giảng Tin Mừng vừa là nhiệm vụ vừa
là quyền lợi để cho người khác biết và tin vào Chúa và đón nhận ơn cứu độ của
Người.
Tóm lại,
người lãnh nhận chức tư tế cộng đồng cũng như chức tư tế thừa tác đều có nhiệm
vụ sống mỗi ngày một trở nên giống Đức Giêsu Kitô là tư tế đích thực và duy
nhất. Điều đó phải được thể hiện trong đời sống của mình đó có thể là những
việc hết sức bình thường nhưng nếu biết quy hướng về Chúa Kitô thì lại có một
giá trị vô cùng to lớn.
2. Dị biệt giữa chức tư tế cộng đồng và thừa
tác
Sự khác
biệt giữa hai chức tư tế thừa tác và cộng đồng được Giáo hội nói rõ như sau: “Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư
tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn cả
về yếu tính, song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức
tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình. Tư tế thừa tác, nhờ
có quyền do chức thánh đào tạo và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Chúa
Kitô cử hành Hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể
dân chúng. Phần tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả, cộng tác dâng thánh lễ và
thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các Bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn,
bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.” ( x.
LG, số 10).
Nói rõ
hơn, các tư tế thừa tác hay phẩm trật, cụ thể là các giám mục và linh mục, thay
mặt Chúa Kitô là Đầu để giảng dạy và cử hành các Bí tích nhất là bí tích Thánh
Thể để diễn lại Hy Tế thập giá trên bàn thờ ngày nay, nhờ đó “ Chúa Kitô, chiên vượt qua của chúng ta chịu
hiến tế ( x. 1Cr 10,17) thì công
trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.”. Nghĩa là, công cuộc cứu chuộc
nhân loại của Chúa Kitô đã hoàn tất một lần xưa qua Hy Tế của Người trên thập
giá, được lập lại ngày nay mỗi khi Thánh lễ Tạ Ơn được cử hành. Và chỉ có
giám mục hay linh mục được làm việc này nhờ quyền thánh đã lãnh nhận qua Bí
tích Truyền Chức mà thôi.
Chức tư
tế chung của người tín hữu chỉ cho phép mọi giáo hữu được hiệp thông với các tư
tế thừa tác trong việc dâng đời sống của mình với mọi vui buồn, sướng khổ để
kết hợp với Hy tế của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa để xin ơn cứu chuộc cho
mình và cho người khác trong Thánh lễ.
Ngoài
ra, chức tư tế và ngôn sứ của người tín hữu cũng đòi hỏi mọi giáo hữu sống nhân
chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời để góp phần mở mang Nước của Chúa Kitô
là “ Nước của của chân lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình
yêu và hòa bình.” Đây chính là địa vị vương giả mà
người tín hữu được chia sẻ với Chúa Kitô nhờ Phép Rửa.
Tóm lại,
chức tư tế của người tín hữu hay giáo dân hoàn toàn khác với chức tư tế của
hàng giáo sĩ thừa tác (Giám mục, Linh mục) như đã nói ở trên. Tuy nhiên sự khác
biệt này không có nghĩa là ai cao trọng hơn ai, mà chỉ nói lên sự khác nhau về
chức năng để chu toàn các nhiệm vụ theo ơn gọi riêng của mỗi bậc sống mà thôi.
Điều
quan trọng là mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội, giáo sĩ, tu sĩ và giáo
dân - tất cả đều được mời gọi để nên thánh và có trách nhiệm loan báo Tin
Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô cho mọi người, mọi dân tộc trên toàn thế giới .
Vai trò khác nhau chỉ nói lên bổn phận khác nhau phải chu toàn mà thôi. “ Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự
hào, vì tất cả đều thuộc về anh em mà anh em thuộc về Chúa Kitô và Chúa
Kitô thuộc về Thiên Chúa.” (1Cr 3: 21,23).
Kết luận
Tóm lại,
chúng ta đã tìm hiểu về ý nghĩa của chức tư tế trong hai Bí tích Thanh Tẩy và
Truyền Chức. Qua đây, chúng ta biết là chức tư tế đã được hình thành trong Cựu
Ước với những ý nghĩa như: thay mặt dân chúng để dâng lời nguyện xin lên Thiên
Chúa, vai trò thứ hai là dạy dỗ và cai trị dân, chức năng thứ ba là tế lễ lên
Thiên Chúa. Chức tư tế không kết thúc ở Cựu Ước nhưng được Đức Giêsu tiếp nối
và hoàn thiện trong Tân Ước. Với Đức Giêsu chức tư tế mang một ý nghĩa mới và
có giá trị vĩnh cửu. Vì chính Đức Giêsu là tư tế được Thánh hiến bởi Thiên
Chúa, và chức tư tế của Người là hy lễ qua sự chết và Phục Sinh để làm lễ tế
dâng lên Chúa Cha. Đức Kitô đổ máu vì nhân loại, và máu đó có giá trị vĩnh cửu
để cứu độ con người. Cho nên Đức Kitô là tư tế duy nhất, đích thực và vĩnh cửu
của Thiên Chúa. Con người sẽ không cần một hiến tế nào khác để dâng lên Chúa
Cha, để đền tội của mình ngoài hiến lễ của Chúa Kitô.
Chức tư
tế của Đức Kitô ngày nay vẫn còn tồn tại, với những ai lãnh nhận Bí tích Thanh
Tẩy, thì được tháp nhập vào thân thể của Chúa Kitô. Người lãnh nhận Bí tích này
cũng trở nên những tư tế của Người, vì được tham dự vào sự sống thần linh như
Đức Kitô. Trong đó một số người Kitô hữu ưu tuyển được chọn vào chức tư tế thừa
tác như chức Giám mục, linh mục để nhân danh Đức Kitô và thay mặt Đức Kitô để
thi hành những mầu nhiệm mà Chúa Kitô đã thiết lập, qua đó mọi người Kitô hữu
được hiệp nhất nên một với Người và lãnh nhận ân sủng cho đời sống của mình nói
chung và đặc biệt là đời sống đức tin. Đồng thời qua đó người Kitô hữu có thể
can đảm sống và loan truyền đức tin của Hội thánh Chúa cho mọi người chưa biết
Chúa. Chức tư tế cộng đồng trong Bí tích Thanh Tẩy và chức tư tế thừa tác trong
Bí tích truyền Chức đều quý trọng, có giá trị trước mặt Chúa như nhau. Nhưng
một số người được tuyển chọn cách riêng để làm những công việc khác, không mục
đích gì khác hơn là để phục vụ cộng đoàn, cho nên cần phải lãnh nhận thêm Bí
tích Truyền Chức để Thiên Chúa ban thêm những ơn sủng đặc biệt và cần thiết cho
những hoạt động riêng mà chức tư tế thừa tác đòi hỏi.
Chức tư
tế của người Kitô hữu không chỉ là tế tự bên ngoài như đi lễ, đọc kinh, lần
hạt, viếng Thánh Thể, mà còn là hiến cả đời mình làm khí cụ cho Thiên Chúa hoạt
động qua sinh hoạt đời thường của mình. Đây cũng là cách thực thi ý Chúa một
cách tuyệt hảo. Kết quả tất nhiên là ta hưởng niềm vui và hoan lạc trong Thánh
Thần. Từ niềm vui đó, chúng ta muốn chia sẻ cho người khác như vậy Tin Mừng
đang nở hoa trong lòng mình. Đây cũng là cách tế tự sống động nhất. Chúng ta
nhìn lại chức tư tế của mọi Kitô hữu để chúng ta cùng nhau có thể thi hành một
cách mau mắn như gương của Đức Giêsu là tư tế đích thực và duy nhất của Thiên
Chúa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét