(tiếp theo kỳ trước)
Bart Khánh
I.
Chức tư tế
trong Bí tích Thanh Tẩy
Khi lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy,
chúng ta được trở nên một thụ tạo mới, được sáp nhập vào thân thể Chúa Kitô như
cành với thân nho. Ngoài ra còn được những ân sủng của Chúa ban cho là được sạch
mọi tội lỗi, được Chúa ban ơn đức tin và những ơn cần thiết để sống vai trò làm
con Thiên Chúa. Từ đó trở thành những dấu chỉ ơn cứu độ, nên không chỉ có hàng
giáo sĩ, nhưng toàn thể cộng đồng tín hữu cũng hợp thành dấu chỉ đó. Hoạt động
của mọi Kitô hữu đều mang tính Giáo hội mặc dầu tính Bí tích của giáo sĩ và
giáo dân là khác nhau. Giáo sĩ có chức tư tế thừa tác nhờ dấu ấn tư tế. Còn
giáo dân có chức tư tế cộng đồng nhờ dấu ấn của Bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức.
Nhưng quan trọng là được tháp nhập vào chính thân thể Chúa Kitô là một niềm
vinh dự to lơn của một thân xác phải chết của con người.
Bí tích Thanh Tẩy làm cho chúng ta
trở thành chi thể trong thân thể Chúa Kitô và là phần thân thể của nhau (GLCG
1267). Từ đây, người ta khám phá ra mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo hội từ mầu
nhiệm thân thể Chúa Kitô mà không phải do sự lựa chọn của con người. Thánh
Phaolô quảng diễn như thân thể của một con người có đầu mình và tứ chi. Khi chi
thể hành động sẽ theo sự điều khiển của cái đầu. Đầu ở đây được ví như Chúa
Kitô và thân thể chính là Hội thánh.
Như vậy, một khi đã trở nên chi thể
trong thân thể của Hội thánh, mỗi người Kitô hữu sẽ thấy vai trò và tầm quan trọng
của mình. Cho nên người Kitô hữu sẽ biết được và tôn trọng những chi thể khác
trong thân thể của Hội thánh. Và cùng với mọi người làm cho Hội thánh của Chúa
Kitô được triển nở mạnh mẽ trong trần thế này. Vì vậy, khi tham dự vào cử hành
phụng vụ các chi thể thi hành chức tư tế phổ quát của toàn dân Thiên Chúa, chức
năng này phát xuất từ Chúa Kitô và con người chỉ có thể thi hành chức năng này
do lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy: “Nhờ Bí
tích Thanh Tẩy, người tín hữu tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô vào sứ mạng
tiên tri và vương đế của Người.” (GLCG 1268).[1]
1.1. Nghĩa tử của Thiên Chúa
Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thụ
nhân trở nên chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô; bởi thế, tín hữu là phần thân thể
của nhau. Bí tích Thánh Tẩy giúp ta tháp nhập vào Hội thánh. Người đã được Rửa
tội trở thành phần tử của Hội thánh. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa,
nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì mình. Bí tích này trao cho người
lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng trao cho họ những quyền
lợi trong Hội thánh.[2]
Một khía cạnh nữa mà chúng ta cần
hiểu đó là cùng chết và cùng sống lại với Đức Kitô trong Bí tích Thánh Tẩy như
thế nào? Trong thư Roma 6,1-11 nói đến vấn đề hiệu năng của Bí tích Thánh Tẩy.
Trong cái nhìn gây nhiều tranh cãi là liên hệ giữa những công thức giải thích
việc cùng chết và cùng sống lại với Chúa Kitô. Thánh Phaolô nêu ra hai điểm bắt
đầu bằng đức tin, xác tín rằng Đức Giêsu Kitô đã đạt được ơn cứu độ cho nhân loại
qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Người. Thứ đến là thực tại nghi thức Thánh Tẩy
của Kitô giáo là Bí tích khai tâm, giúp con người được tham dự vào ơn cứu độ do
chính Đức Kitô đạt được một lần dứt khoát. Hai điểm xuất phát này được thánh
Phaolô nối kết lại theo cách đặc thù của ngài.
Thánh Phaolô xác tín một cách mạnh
mẽ vào một sự hiện hữu mới của con người. Sự kiện Thánh Tẩy có nghĩa trước tiên
là chết đi, và qua cái chết chúng ta thoát khỏi quyền lực của tội lỗi, có nghĩa
là không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa, như thế là không được phép phạm tội nữa.
Đứng về mặt lịch sử cứu độ, cái chết
của Đức Giêsu đòi buộc luôn luôn phải gắn bó với cuộc Phục Sinh; không có Phục
Sinh, không thể nào hiểu đúng được cái chết của Chúa.
1.2. Tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô
Đức Kitô khởi đầu chức tư tế trong
mầu nhiệm nhập thể và chỉ trở nên hoàn toàn trong mầu nhiệm Phục Sinh. Do đó,
Bí tích Thánh Tẩy cũng làm cho người Kitô hữu được tham dự vào mầu nhiệm nhập
thể của Đức Kitô, mà còn được hưởng sự sống vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.
Như trong thư gởi tín hữu Roma 6, 3-4 mà
thánh Phaolô trình bày:
“Anh em không biết rằng chúng ta được dìm vào
nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của
Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cũng được mai
táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ vào
quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.”
Bí tích Thánh Tẩy là hình ảnh cái
chết của Đức Kitô và nói đúng theo ngôn ngữ Kinh Thánh, Thánh Tẩy “là cùng lớn lên trong hình dạng của cái chết
của Đức Giêsu Kitô” và như cái chết này không thể hiểu được nếu không có sự
Phục Sinh. Chính Bí tích Thánh Tẩy cũng là hình ảnh của sự Phục Sinh. Ai tự
nguyện lãnh Bí tích Thánh Tẩy sẽ thông phần vào cái chết và cả cuộc Phục Sinh của
Đức Kitô, có nghĩa là thông phần vào hiệu quả hành động cứu độ của Đức Giêsu đã
được hoàn tất trong cái chết và Phục Sinh của Người.
Bí tích Thánh Tẩy đưa người tín hữu
từ cõi chết bước vào một cuộc sống mới. Khi người tín hữu được tham dự trọn vẹn
vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô thì cũng chính là người tín hữu đã được
tham dự một cách đầy đủ chức tư tế của Người.
2.
Sứ vụ tư tế
của người Kitô hữu
Mọi Kitô hữu được trở thành tư tế
do phép rửa và vì thế họ (giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân) đều
bình đẳng với nhau do được tham dự vào chức tư tế của Chúa Giêsu Kitô, là phẩm
giá cao nhất của mọi Kitô hữu. Không có một chức tư tế nào khác trong Giáo Hội
cao trọng hơn chức tư tế này.
Theo lược đồ này thì Giáo hội gồm
thành phần đại đa số giáo dân và một phần thiểu số gồm linh mục, giám mục, giáo
hoàng, mà mỗi thành phần đều mang một sứ vụ chuyên biệt - tuỳ hoàn cảnh, nhưng
tất cả các sứ vụ đó đều nhắm vào lợi ích cho toàn Giáo hội. Có nhiều đặc sủng
khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ
có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm
mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích
chung. (1Cr 12:4-7)
Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy người
Kitô hữu được tham dự vào nhiệm thể Chúa Kitô. Cùng lúc đó sẽ lãnh nhận quyền
và nghĩa vụ của một thành viên trong gia đình Giáo hội. Đó là được lãnh nhận ba
chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế.
Công Đồng Vaticanô II là công đồng
đầu tiên duy nhất từ trước đến nay bàn thảo sâu rộng về giáo dân và về Giáo hội
học về giáo dân. Tài liệu làm nền tảng cho mọi tài liệu khác của Công Đồng
chính là Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, trong đó dành 2 trong 4 chương đầu để bàn
về thần học và Giáo hội học về giáo dân.
Trong Hiến chế này, Công Đồng đã
nói về bản tính và sứ mệnh của người giáo dân dựa trên ba chức vụ mà họ có do
phép rửa và sự nhập hiệp của họ vào thân thể của Chúa Kitô như sau:
"Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những
Kitô hữu không có chức thánh hoặc bậc tu trì đựợc Giáo hội công nhận; nghĩa là
những Kitô hữu đã được nhập hiệp vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ phép Rửa, đã trở
nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ, và vương giả của Chúa
Kitô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn
dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của
mình". (LG 31)
Trong Sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân,
Công Đồng cũng đã xác định vì 3 sứ vụ ấy mà họ phải chu toàn phận sự của họ:
“Giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào chức vụ tư tế,
ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của mình trong sứ
mệnh của toàn dân Thiên Chúa trong Giáo hội và ở giữa trân gian.” (AA, 2)
2.1. Đức Kitô tư tế là khởi nguồn và cùng đích cuộc sống của
Kitô hữu
Đức Kitô với cương vị là vương đế
nên chức tư tế của người Kitô hữu cũng phải hướng đến chức tư tế của Người. Đức
Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi trong máu của Người, và đó cũng là sự
hiến thánh chúng ta. Cái chết của Người thiết lập lại mối tương quan giữa ta với
Thiên Chúa.
Giáo hội thường nói đến Nước Chúa
như một “vương quốc những tư tế,” vì
thành phần trong Nước Chúa là phần thân thể của Đức Kitô, và Đức Kitô là “Linh mục Thượng Phẩm,” vì nếu Đức Kitô
là Đầu và là Thượng Phẩm thì không lý gì mà các chi thể khác lại không được chức
tư tế (LG, 10).
Sắc lệnh Tông Đồ Giáo dân nói rõ thêm:
“Người giáo dân được thánh hiến vào chức vụ tư tế
vương giả và dân tộc thánh (Xem 1P 2, 2-10), hầu trong mọi việc của họ làm
thành những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn
cầu”(AA 3).
Người giáo dân tham gia vào chức vụ
tư tế của Chúa Giêsu thế nào? Họ lấy gì làm vật hiến tế? Có thể nói bằng chính
cuộc đời, toàn bộ cuộc đời với mọi hành động, suy nghĩ và dự phóng của mình. Đức
Gioan Phaolô II giải thích:
“Bằng việc dâng hiến chính mình và các hoạt động của họ…
những lời cầu nguyện cũng như các hoạt động tông đồ, đời sống hôn nhân, gia
đình, những công việc lao động hằng ngày, các việc giải trí, tinh thần thể xác,
nếu tất cả đều được hướng dẫn do Thần Linh Thiên Chúa, ngay cả những thử thách
của cuộc đời, miễn là chịu đựng một cách nhẫn nại, tất cả trở thành của lễ
thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa Cha nhờ Đức Giêsu Kitô. Trong thánh lễ, các của
lễ này hiệp với Mình Chúa được dâng lên cho Đức Chúa Cha với tâm hồn sốt sắng.
Như thế người giáo dân thánh hiến cho Thiên Chúa chính cả trần thế này"
(CL 14.)[3]
Người Kitô hữu có bổn phận và quyền
làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là đầu. Họ được chính Chúa chỉ
định làm việc tông đồ, vì phép Rửa Tội mọi người được tháp nhập vào nhiệm thể
Chúa Kitô, Phép Thêm Sức làm cho mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Nên có
thể nói người Kitô hữu sẽ khởi sự và hoàn tất cuộc đời của mình trong Chúa Kitô
đó cũng xem như là một hiến tế dâng lên Thiên Chúa.
Qua cử hành phụng vụ là việc thi
hành chức tư tế của Đức Kitô, trong đó mang một chiều kích là thánh hóa con người.
2.2. Chức tư tế của người Kitô hữu qua cử hành phụng vụ
Còn anh em là giống nòi được tuyển
chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa (1Pr
2,9). Là điều khẳng định là lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện và để cho
chương trình của Thiên Chúa được hoàn thành. Khi nhận thấy những hồng ân vô
cùng lớn lao, mọi người có nhiệm vụ loan truyền như tiên tri Isaia đã nói: “Ngõ hầu anh em hãy loan truyền những kỳ công
của Đấng đã gọi anh em từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Người”. Đó là
vinh dự không do con người, nhưng hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa,
những kẻ xưa không được thương xót, mà nay đã được xót thương (1Pr 2,10).[4]
Giáo hội đã xác định trọng tâm của
phụng vụ chính là tác động tư tế của Đức Kitô, được thể hiện qua nhiệm thể Giáo
hội của Người. Đây là tác động có giá trị và vượt trên mọi sinh hoạt khác của
Giáo hội, vì phụng vụ là việc làm tưởng nhớ và liên hệ sâu xa với Thiên Chúa Ba
Ngôi. Chữ Phụng vụ theo nguồn gốc được hiểu là một việc làm công khai hay một
việc làm nhân danh dân hay thay cho dân.
Theo truyền thống Kitô giáo, chữ phụng vụ có nghĩa là việc dân Chúa được tham dự vào công trình của Thiên Chúa (X. Ga 17,4). “Qua phụng vụ, Đức Kitô, Đấng cứu chuộc và là
vị Thượng Tế của dân Người, tiếp tục cứu độ chúng ta nơi Giáo hội, với Giáo hội
và nhờ Giáo hội của Người”.[5]
Vì phụng vụ diễn tả mầu nhiệm Đức
Kitô và mầu nhiệm Hội thánh, nên trong phụng vụ có các nhiệm vụ khác nhau người
đóng vai trò chủ tọa, kẻ khác là thừa tác viên. Mỗi người thi hành nhiệm vụ của
mình, nhưng tất cả nhằm biểu lộ mầu nhiệm Thân Thể Đức Kitô (PV 10,14). Do đó để
một hành vi gọi là phụng vụ cần phải hội đủ ba tiêu chuẩn sau đây: được cử hành
nhân danh Giáo hội, bởi những người do Hội thánh ủy nhiệm cách hợp pháp và chu
toàn đúng đắn các nghi thức đã được thẩm quyền Hội thánh phê chuẩn (GL 834).[6]
Người Kitô hữu khi thi hành chức tư
tế phổ quát là khi tham dự vào việc cử hành phụng vụ của Hội thánh, nhằm mục
đích là tôn vinh và thờ phượng Thiên Chúa, nên cần phải tránh những thái độ chỉ
nhân danh cá nhân, gây chia rẽ. Nhưng là phải tâm đầu hiệp ý với mọi thành phần
dân Chúa để cùng nhau cử hành phụng vụ.
(Còn tiếp)
[1]Lm Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ,
Tìm Hiểu Các Bi Tích Công Giáo, Đại
chủng viện Giuse, Xb Tp HCM 2002, tr.112.
[2]Giuse Phạm Quốc Văn OP, Từ cạnh sườn bị đâm thâu, Học viện Đa
Minh 2010, tr.59.
[3]http://www.danthan.org/DIENDAN/ARTICLES/ongoi_giaodan6.htm,
cập nhật ngày 7-4-2010
[4]Gm Phaolô Bùi Văn Đọc, Linh Mục là ai?, Nxb Tôn giáo 2009,
tr.44
[5]Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
số 1069
[6]Lm Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ,
Tuyển Tập Những Quy Luật Căn Bản Khi Cử
Hành Phụng Vụ, Tp HCM, 2004, tr.8
0 nhận xét:
Đăng nhận xét